TỪ TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐẾN NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

 

 

Th.S Đào Thị Thúy Loan

 

 

Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội xuất hiện khá sớm trong nền văn minh nhân loại, gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, chế độ xã hội khác nhau với nội dung cơ bản: dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.

Ở Việt Nam, mầm mống tư tưởng dân chủ đã có từ lâu, như một nhu cầu tự nhiên mang bản tính của con người trong đấu tranh để tồn tại và cố kết cộng đồng. Song người Việt Nam chỉ biết đến và được hưởng quyền dân chủ thực sự từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân lãnh đạo thực hiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và tiến hành hiện thực hóa tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội.

1. Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đây là sự kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng dân chủ Mác-Lênin, truyền thống dân chủ tốt đẹp của người Việt Nam và tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về một nền dân chủ nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân ở Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng con người và xã hội trên cơ sở giải phóng giai cấp, dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp trên lập trường của giai cấp vô sản, thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc trên quan điểm và phương pháp của cách mạng vô sản, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Quan niệm dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Dân chủ là nội dung trực tiếp, mục tiêu của đường lối cứu nước, lý luận và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh được phát triển nhất quán từ cách mạng giải phóng dân tộc tới cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN), từ con đường đấu tranh đánh đổ đế quốc thực dân phong kiến xóa bỏ ách nô lệ, tiến tới giành quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho mọi người lao động, xác lập địa vị người chủ và làm chủ xã hội cho toàn dân, xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền, một chế độ xã hội mới - xã hội XHCN.

Vì vậy, muốn có dân chủ chúng ta phải tiến hành đấu tranh cách mạng để cải tạo xã hội cũ, kiến thiết xã hội mới. Dân chủ trước hết là quyền dân tộc độc lập, dân tộc tự quyết, quyền tự do chính trị của nhân dân, quyền nhân dân tự quyết định vận mệnh và cuộc sống của mình. Nước độc lập thì dân mới được hưởng quyền tự do, dân chủ, mới có hạnh phúc. Phải đem sức ta mà giải phóng cho ta, xóa bỏ ách nô lệ, làm cách mạng dân chủ nhân dân tiến dần lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường phát triển duy nhất của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, đó là cái đảm bảo chắc chắn cho dân là chủ và dân làm chủ, bảo đảm cho mọi người, mọi dân tộc thực hiện chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhần sâu sắc trong toàn bộ di sản tư tưởng lý luận của Người, trong sự thống nhất hữu cơ giữa tư tưởng, phương pháp với phong cách, đạo đức, văn hóa, lối sống, giữa cuộc đời toàn vẹn và trọn vẹn của một con người có cái tâm trong sáng, đức cao cả, trí mẫn tuệ, hành mực thước, với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của một lãnh tụ thiên tài. Bác không chỉ thể hiện và thực hiện vấn đề dân chủ trên phương diện chính trị, đấu tranh chính trị và cách mạng chính trị, mà còn thực hành dân chủ rộng rãi trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, xây dựng con người mới, lối sống mới, đạo đức mới. Bác đặc biệt chú ý tới xây dựng thể chế dân chủ, xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền nhằm thực hiện dân quyền, bảo đảm dân sinh, nâng cao dân trí. Người chủ trương thực hành dân chủ trong Đảng để làm gương cho dân chủ trong xã hội, giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa dân chủ của cá nhân với dân chủ của xã hội, giữa công dân với nhà nước, thành viên với cộng đồng, giữa quyền hạn và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm, dân chủ và pháp luật, kỷ luật, kỷ cương, dân chủ và tập trung.

          Như vậy, muốn thực hành dân chủ rộng rãi chúng ta phải thực hiện cải cách xã hội và đổi mới, thực hiện đoàn kết toàn dân, xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao ý thức, năng lực làm chủ của dân, chống quan liêu, loại trừ tham nhũng, chống thói xa dân, coi thường dân. Chống quan liêu, tham ô, ăn cắp, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư thực chất là chống chủ nghĩa cá nhân ở tất cả mọi người, mọi cấp, mọi ngành, trong Đảng, trong bộ máy nhà nước và xã hội để cho dân chủ thực sự là “của quý báu nhất” của nhân dân. Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn và dân chủ là động lực của tiến bộ và phát triển. Không có dân chủ thì cũng không có CNXH.

          Gần 80 năm thực hiện theo tư tưởng và phương pháp dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước ta đã xây dựng được nền dân chủ định hướng XHCN, trên cơ sở nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hệ thống chính trị vững vàng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò là chủ và làm chủ của nhân dân lao động ngày càng được bảo đảm và phát huy. Ý thức và năng lực làm chủ của người dân được nâng cao, mọi người đã và đang mang hết tài năng cũng như sức lực tham gia vào quá trình phát triển và hưởng thụ thành quả phát triển, tích cực thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, xét trên từng lĩnh vực cụ thể thì vẫn còn một số nội dung dân chủ chưa được tôn trọng đúng mức, thậm chí bị vi phạm nghiêm trọng.

2. Thực trạng nền dân chủ ở nước ta hiện nay

Đánh giá đúng thực trạng nền dân chủ XHCN ở nước ta như thế nào là việc làm không dễ. Theo chúng tôi, để đánh giá đúng thực trạng trên cần chú ý một số vấn đề sau:

2.1. Phải nhìn nhận nó trong sự vận động liên tục, không cắt đoạn, không dừng lại ở việc giải thích hoặc so sánh giản đơn giữa nước ta với nước khác khi trình độ kinh tế - xã hội và lịch sử khác nhau. Nghĩa là, phải nhìn nó trong sự phát triển liên tục của đất nước, so sánh với chính nó trong từng thời kỳ khác nhau.

2.2. Khi nói đến dân chủ là nói đến quyền làm chủ của nhân dân lao động thông qua quyền lực nhà nước và quyền tự do của người dân được thiết lập qua chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, được thực hiện bằng các thiết chế, quy chế. Dân chủ được thể chế hóa thành chế độ dân chủ và chế độ dân chủ được thực hành trong đời sống xã hội thành nền nếp, lối sống, văn hóa,…thì đó là nền dân chủ. Do đó, nhận thức rõ tính chỉnh thể, hệ thống của nền dân chủ là một yêu cầu có ý nghĩa nguyên tắc, phương pháp luận trong xây dựng và đánh giá. Có như vậy mới khắc phục được cách nhìn giản đơn, có khi còn ảo tưởng, thỏa mãn khi xây dựng và đánh giá nền dân chủ XHCN.

2.3. Tiêu chí cơ bản để đánh giá nền dân chủ XHCN là quyền lực thuộc về nhân dân lao động được thực hiện trong đời sống hiện thực trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Song, “thực chất” hay “quyền lực” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói về “nền dân chủ thực sự” được thể hiện trong mối quan hệ giữa: quyền dân chủ với tính chất và trình độ của nền kinh tế - xã hội; quyền dân chủ và hệ thống thể chế; dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; dân chủ và chuyên chính; dân chủ với công bằng xã hội; truyền thống và hiện đại; yếu tố ngoại sinh và yếu tố nội sinh; quyền và khả năng, điều kiện thực hiện quyền dân chủ,…Đây là những quan hệ tương hỗ, quy định nhau, nếu không đánh giá cụ thể, toàn diện sẽ dễ thiên lệch, không đúng thực chất.

Theo lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đấu tranh, giành chính quyền cách mạng xã hội và từng bước xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN cũng là điểm bắt đầu hình thành nền dân chủ XHCN. Nhiệm vụ của cách mạng vô sản là, sau khi giành chính quyền phải biết sử dụng có hiệu quả quyền lực nhà nước vừa giành được để xây dựng thiết chế kinh tế, chính trị, xã hội mới, để nhân dân, trước hết là nhân dân lao động từng bước trở thành người chủ xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực.

Với Người chưa thấy dùng thuật ngữ “nền dân chủ XHCN”, nhưng thuật ngữ dân chủ XHCN được Bác sử dụng như một hiện thức tồn tại ở nước ta ngay từ năm 1968 và yêu cầu: “Cần phát huy đầy đủ dân chủ XHCN” [2, tr. 403] để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Riêng thuật ngữ nền dân chủ, Bác sử dụng không ít hơn 45 lần trong các bài nói, bài viết được xuất bản trong Hồ Chí Minh toàn tập (bộ 12 tập) và nhiều lần Người nhấn mạnh nền dân chủ thực sự với ý nghĩa là nền dân chủ XHCN.

Xuất phát từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng với nó là các quan hệ sản xuất mới đang hình thành ở nước ta, từ thu nhập quốc dân tính theo đầu người thì Việt Nam còn là một nước nghèo, kém phát triển. Nếu đánh giá theo chỉ số phát triển con người (HDI) và khả năng xóa đói, giảm nghèo thì nước ta không ở hạng yếu kém, mà còn ở hạng các nước khá. Nếu chỉ nói riêng về an toàn lương thực và xuất khẩu gạo mấy năm gần đây, Việt Nam thuộc hạng các nước mạnh. Do đó, có thể thấy, chế độ chính trị và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam có nhiều mặt tốt, song còn không ít hạn chế. Bản chất và tính ưu việt trong việc thiết lập và thực thi quyền dân chủ của nhân dân lao động rõ ràng cao hơn dân chủ tư sản và dân chủ theo mô hình CNXH thời chiến, tuy nhiên, trình độ, ý thức dân chủ của người dân và một số cán bộ trong đội ngũ lãnh đạo quản lý cùng hệ thống thể chế, cơ chế dân chủ còn thấp, chưa tương xứng với quyền mà nhân dân được hưởng đã quy định trong pháp luật.

Nhìn một cách khái quát, chúng tôi cho rằng, nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay đang phát triển trên cơ sở hoàn thiện nền dân chủ nhân dân và bước đầu xây dựng nội dung, thiết chế dân chủ XHCN. Nền dân chủ XHCN sau 30 năm đổi mới vẫn mang tính chất quá độ, có mặt đang phát triển, có mặt còn hạn chế, đang từng bước hoàn thiện chứ chưa phải là nền dân chủ XHCN ở mức độ chín muồi, đầy đủ. Vì vậy, trong nhận thức, không thể phủ nhận tính chất và yếu tố XHCN trong nền dân chủ hiện nay, song cũng không nên coi đây là nền dân chủ XHCN đầy đủ, chỉ cần phát huy chứ không cần xây dựng và phát triển. Thời gian qua là bước tiến dài, đã mở ra một thời đại dân chủ mới thực sự ở Việt Nam, thời đại mà nhân dân lao động được và biết làm chủ cuộc sống của mình trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…; đặc biệt, mức sống, lối sống của người dân và toàn xã hội được cải thiện và có nhiều tiến bộ. Số hộ dân đói nghèo ngày càng giảm, số hộ dân khá, giàu ngày càng tăng; quan niệm sống mình vì cộng đồng và cộng đồng vì mình ngày một phổ biến trong sản xuất cũng như trong phòng chống thiên tai; từng bước hình thành tập quán sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân,…

Từ kinh nghiệm qua 30 năm đổi mới, Đảng ta thấy rõ hơn vấn đề xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN là một yêu cầu khách quan quan trọng không thể thiếu được trong mục tiêu chiến lược phát triển đất nước. Không thể coi dân chủ là hệ quả của công bằng và văn minh trong cuộc cách mạng XHCN mà phải đưa dân chủ vào mục tiêu cụ thể, trực tiếp của chiến lược cách mạng trong thời gian tới,  đó là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nhằm phát huy cao hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, phát huy dân chủ từ cơ sở, đồng thời tăng cường pháp chế XHCN, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, khắc phục cả dân chủ hình thức cũng như dân chủ cực đoan.

Nhìn từ góc độ đổi mới, đây là một sự đổi mới tư duy có ý nghĩa chiến lược của Đảng ta, sự vận dụng, thể hiện tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với Bác, mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh xuyên suốt và nhất quán trong lý luận cũng như hành động cách mạng của Người. Tư duy mới của Đảng ta về dân chủ thể hiện ở chỗ: dân chủ gắn liền với đoàn kết toàn dân, với trí tuệ mới và với chính quá trình đổi mới. Đó cũng là đặc điểm của nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay.

Vì vậy, xác định dân chủ là mục tiêu trực tiếp của chiến lược cách mạng trong thời gian tới, điều đó cho thấy, nền dân chủ XHCN với tất cả những gì đạt được chỉ mới là bước đầu, nhiệm vụ tiếp tục dân chủ hóa xã hội, phát huy động lực của sự phát triển đất nước còn nặng nề, đòi hỏi phải xóa bỏ triệt để các thể chế quan liêu, bao cấp, những lực cản, tiếp tục cải biến những tâm lý không phù hợp trong từng con người, tiếp tục xây dựng những nền tảng mới, thể chế mới của xã hội văn minh. Tuy vậy, cũng cần chú ý, khi phát triển kinh tế thị trường, những hiện tượng tiêu cực mới, hành vi vi phạm quyền dân chủ của nhân dân cũng nảy sinh. Nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta phải thừa nhận, ở nước ta lúc này hay lúc khác, chỗ này, chỗ khác vừa có dân chủ, vừa chưa có dân chủ; vừa rất tôn trọng dân chủ, vừa có vi phạm dân chủ, thậm chí có nơi vi phạm khá nghiêm trọng.

Do đó, với trách nhiệm của người lãnh đạo chính trị, người cầm quyền, Đảng ta đã khẳng định: “Sở dĩ có tình trạng đó là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính”. Đó là: “Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập”.

Về phía Nhà nước, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII đã đánh giá: “Bộ máy Nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng chưa được ngăn chặn, hiệu lực quản lý, điều hành chưa nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông lỏng làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước”. Những nguyên nhân trên cũng chính là trở lực lớn trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta. Thực ra những trở lực này đã được Bác dự báo và lường trước ngay từ những ngày đầu tiên miền Bắc xây dựng CNXH mà Người gọi một cách chính xác là ba kẻ địch. Trong đó, có một kẻ “ngoại xâm” và hai kẻ “nội xâm” chống lại cách mạng.

Với tinh thần trên, Báo cáo Chính trị tại Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân”. Như vậy, chúng ta cần nhận thấy, nền dân chủ XHCN đã có một quá trình phát triển không thuần nhất, nhưng lại đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng chính trị - đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc điểm rất đáng lưu ý để mỗi thực thể cấu thành yếu tố vật chất và tinh thần của nền dân chủ thấy rõ trách nhiệm của mình.

Ngoài ra, chúng ta phải khẳng định sự thống nhất hữu cơ giữa quá trình xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN ở Việt Nam đối với sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản. Đồng thời, có ý thức rõ, trong điều kiện một Đảng duy nhất lãnh đạo, nếu Đảng không tự ý thức rõ nguy cơ áp đặt ý chí của mình cho Nhà nước, xã hội, tự đặt mình trên Nhà nước và pháp luật, các đảng viên có chức, có quyền sa vào các đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, cửa quyền,…thì Đảng sẽ trở thành vật cản trên con đường xây dựng một xã hội thực sự dân chủ. Vì vậy, trong khi khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới, Đại hội IX của Đảng đã chỉ ra: “Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng”

Như vậy, có thể thấy, nền dân chủ XHCN ở nước ta đang trong giai đoạn đầu, đang tự khắc phục những yếu kém, sai sót, lệch lạc, đang được đổi mới để ngày càng hoàn thiện.

 

Tuy nhiên, dù có cải biến, đổi mới ở mức độ nào thì nền dân chủ XHCN đó cũng không thể xa rời nguyên tắc: Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân  lao động mà nòng cốt là liên minh công, nông, trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo; nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện trong tất cả các tổ chức đảng và cơ quan Nhà nước; nguyên tắc tự do của cộng đồng được phát huy trên cơ sở quyền độc lập, tự chủ, tự do cá nhân được bảo đảm; nguyên tắc dân chủ pháp quyền và đoàn kết xã hội được phát triển; nguyên tắc hợp tác và đồng thuận xã hội giữa Nhà nước và doanh nghiệp, doanh nhân, giữa Nhà nước và xã hội công dân. Các nguyên tắc trên tạo thành một chỉnh thể nhằm phát huy và phát triển tiềm năng của con người và năng lực xã hội trong các dân tộc, giai tầng xã hội, thành phần kinh tế để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.