MỘT SỐ KỸ NĂNG SƯ PHẠM TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THPT

 

ThS. Nguyễn Thị Hương

Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định: “Nghề dạy học là nghề cao quý bậc nhất trong các nghề cao quý của xã hội xã hội chủ nghĩa. Các nghề trong chế độ ta đều sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần… Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”. Một GV giỏi không chỉ là người có chuyên môn tốt mà còn phải thành thạo những kĩ năng nghiệp vụ sư phạm. Thực tế cho thấy, đã không ít trường hợp SV tốt nghiệp loại giỏi, khá ở trường nhưng ra trường vẫn không đáp ứng được yêu cầu của công việc, chưa khẳng định được vị thế của mình trong nghề nghiệp và xã hội. Vì vậy, việc rèn luyện các kỹ năng sư phạm cho những người GV tương lai là một nội dung quan trọng trong các trường đào tạo ngành sư phạm. Để dạy học môn GDCD ở trường THPT đạt hiệu quả tốt người giáo viên cần trang bị cho mình rất nhiều các kỹ năng. Sau đây tôi xin chia sẻ với các bạn SV ngành GDCT một số kỹ năng cơ bản sau:

1. Kỹ năng thiết kế giáo án

Giáo án là kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Nhiều nhà giáo dục học nổi tiếng đã chứng minh thực tế là 60% chất lượng giờ dạy tốt là tùy thuộc vào khâu chuẩn bị soạn giáo án còn lại 40% là tùy thuộc vào năng lực sư phạm và kinh nghiệm của người thầy. Vì vậy GV muốn giảng dạy tốt phải nghiêm túc trong việc soạn giáo án.

Thiết kế giáo án một kỹ năng quan trọng, là kỹ thuật trí tuệ đòi hỏi GV phải có tư duy khoa học, khả năng ước lượng để lựa chọn kiến thức chuẩn xác, đủ về khối lượng để giáo án không bị cháy. Để HS có thể nắm được kiến thức, GV cần lựa chọn PPDH phù hợp với nội dung và đối tượng, phát huy được tính chủ động sáng tạo, của người học. Khi soạn giáo án, GV cần có những kỹ năng nhất định như: kỹ năng xác định mục tiêu, kỹ năng lựa chọn nội dung bài học, kỹ năng lựa chọn PPDH

* Khi xác định mục tiêu, GV cần khẳng định được những kỹ năng người học cần đạt được sau bài học. Những kỹ năng đó cần phải phù hợp với chuẩn kiến thức kỹ năng mà Bộ GD ĐT quy định, phù hợp với trình độ của đối tượng học và phải được biểu đạt bằng những từ chỉ hành động cụ thể, ví dụ: trình bày, phân tích, giải thích, mô tả,…

* Dẫn nhập để tạo tâm thế tích cực cho người học là một phần việc quan trọng. GV có thể giới thiệu một hình ảnh, kể câu chuyện, nêu một vấn đề cần giải quyết… Không nên lúc nào cũng rập khuôn bằng một câu chuyển giảng, nếu người học không cảm thấy hứng thú, giờ học sẽ không hiệu quả. Khi thể hiện phần dẫn nhập trong giáo án, GV chỉ cần nêu tên hoạt động, không cần thiết phải thể hiện chi tiết câu chuyện, vấn đề mình dự định sẽ nói. (Tuy nhiên đối với giáo sinh kiến thực tập các em nên thể hiện chi tiết câu chuyện, vấn đề mình cần nói để chủ động hơn, logic hơn, không bị lúng túng trên bục giảng)
          * Lựa chọn nội dung bài học, GV cần tránh nhầm lẫn với nội dung chương trình. Chúng ta chỉ nên đưa vào giáo án những nội dung cần thiết, phù hợp đối tượng học, không nhất thiết phải lo lắng khi loại bỏ một số nội dung chương trình ra khỏi giáo án. Chỉ cung cấp những gì người học cần chứ không phải những gì chúng ta có. (Ngay cả trong phân phối chương trình cũng rất linh hoạt, cho phép GV lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp với đặc điểm vùng miền)

* Thiết kế hoạt động dạy học là một công việc cần sự đầu tư kỹ lưỡng của GV. Đây là phần trọng tâm, thể hiện toàn bộ kịch bản của giờ dạy. Những phương pháp nào cần phải vận dụng, những tình huống học tập nào cần đưa vào bài… Để thiết kế hoạt động dạy – học cho 1 giờ học thường gồm 5 bước: Bước 1: Phân tích nội dung học tập; Bước 2: Phân tích kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm hiện có của HS; Bước 3: Xây dựng tình huống học tập; Bước 4: Thiết kế hoạt động của HS; Bước 5: Thiết kế hoạt động tổ chức và hướng dẫn

Khi thể hiện trong giáo án, người GV cần nêu rõ cách thức triển khai hoạt động cụ thể của giáo viên và học sinh, đồng thời nêu rõ mục tiêu của các hoạt động đó, tránh việc chỉ nêu tên phương pháp (Giáo án mới được áp dụng yêu cầu ghi rõ hoạt động dạy học chứ không phải là nêu tên PP như mẫu cũ trước kia).

Trong quá trình thực hiện các hoạt động dạy học, GV cần sử dụng nhiều PP khác nhau để tránh gây nhàm chán cho người học, điều quan trọng là dù sử dụng PP nào thì cũng không nên kéo dài quá 20 phút với một PP.

* Lựa chọn phương tiện dạy học, GV cần xem xét đến các yếu tố cơ bản sau: Mục đích sư phạm cụ thể; Đặc điểm môn học; Mục tiêu học tập chung; Đặc điểm đối tượng; Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc dạy học và điều kiện cơ sở vật chất thực tế của nhà trường.

Thiết kế giáo án là một công việc thường xuyên của GV trước khi lên lớp. Một khi giáo án được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu thì sẽ giúp cho GV có được sự tự tin, từ đó quyết định rất lớn đến sự thành công của GV trong giờ giảng.

2. Kỹ năng xây dựng bài giảng điện tử

Hiện nay cơ sở vật chất phục vụ quá trình dạy học ngày càng được trang bị đầy đủ, việc ứng dụng CNTT vào dạy học ngày càng trở nên phổ biến. Vậy người GV cần ứng dụng CNTT trong dạy học môn GDCD như thế nào để đạt hiệu quả cao?

Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn GDCD kho tư liệu là điều 
kiện cần thiết và đặc biệt quan trọng vì đặc trưng của bộ môn GDCD là bộ môn 
trang bị cho học sinh hệ thống những tri thức đa dạng, phong phú: Triết học, đạo 
đức, chính trị, pháp luật. Những bài dạy về đạo đức, chính trị, pháp luật đòi hỏi 
có tính thực tiễn cao. Do vậy giáo viên dạy GDCD phải chú trọng cập nhật những thông tin, số liệu mới phục vụ cho quá trình giảng dạy đạt được hiệu quả. 

- Trước đây giáo viên xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo tài 
liệu, sách báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tư liệu. Hiện nay việc 
ứng dụng CNTT giúp giáo viên xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú, 
khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước, việc khai thác tư liệu có 
thể lấy từ các nguồn: Khai thác thông tin, tranh ảnh từ mạng internet.  Khai thác từ băng hình, phim, video, các phần mềm tranh ảnh, bản đồ, hình 
vẽ... thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính. Khai thác các hình ảnh tĩnh, động, các phần mềm trên các đĩa CD- ROM, 
VCD... Chỉ cần kích chuột vào insert /Picture /prom file... vào ổ đĩa CD-ROM lựa chọn tranh, ảnh, hình vẽ cần tìm rồi đưa vào bài giảng.

Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư 
liệu phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu 
trữ thành các file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng như: các dữ liệu về hình ảnh dân số, tài nguyên và mô 
trường, về vấn đề ATGT, về các tệ nạn xã hội, về các hoạt động đền ơn đáp 
nghĩa, về các thắng cảnh của quê hương đất nước, và một số di tích lịch sử của 
địa phương và của đất nước…

Chúng ta có thể sử dụng giáo án điện tử để dạy các bài có tính chất thuyết 
trình, kiến thức trừu tượng, đặc biệt là những bài học mà có thể khai thác các tư 
liệu, hình ảnh, video, phần mềm ... 

* Quy trình thiết kế một bài giảng điện tử: 

         - Xác định rõ mục tiêu bài dạy

         - Xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm. 

- Lựa chọn tư liệu tranh, ảnh, phim, thông tin cần thiết phục vụ bài dạy.

- Lựa chọn các phần mềm, trình diễn, hiệu ứng ... để xây dựng tiến trình dạy học thông qua hoạt động cụ thể.

- Chạy thử, sửa chữa và hoàn thiện bài giảng.

3. Kỹ năng trình bày bảng

Trình bày bảng cũng là một kỹ năng quan trọng của mỗi GV khi đứng lớp. Khi trình bày bảng người GV cần chú ý thực hiện đúng các bước sau:

Bước 1 - Quan sát và kiểm tra bảng: Ở bước này phải chắc là mặt bảng sạch, bảng đã được bắt cố định, chắc chắn không rung. Đồng thời giáo viên cũng nên lập dàn ý nội dung viết chính xác, dự kiến cách bố trí nội dung lên bảng.

Bước 2 - Chia bảng: Thông thường GV đều chia thành ba phần đều nhau bằng phấn. Việc phân chia này sẽ đảm bảo các nội dung GV trình bày trên bảng là đầy đủ, khoa học.

Bước 3 - Sử dụng bảng: Với việc đã phân chia bảng thành 3 phần riêng biệt như trên thì trong quá trình trình bày bảng giáo viên nên lưu ý:

Phần giữa bảng bên trên ghi tên bài. Ghi bằng chữ in hoặc chữ thường cỡ chữ to, có thể dùng phấn màu gạch chân tên bài giảng.

Phần bên trái bảng viết dàn bài, giữ cố định không xóa (trong suốt quá trình giảng bài). Đây được xác định như xương sống của bài giảng. Bài học gồm những nội dung cơ bản nào được liệt kê và ghi rõ vào đây. Với những nội dung bài giảng cụ thể, ngoài việc kết hợp các phương pháp giảng dạy khác nhau và những phương tiện kỹ thuật cần thiết thì việc giáo viên ghi những đề mục, dàn bài lên bảng sẽ đảm bảo việc ghi nhớ cho người học sau tiết giảng vì người học có thể ghi và lưu giữ kiến thức bài học thông qua những nội dung, dàn ý này.

Phần giữa bảng dùng để giải thích, vẽ, phân tích, xóa thường xuyên. Những kiến thức liên quan đến nội dung giảng dạy được giáo viên sử dụng và thể hiện ở nội dung phần trung tâm của bảng.

Phần bên phải bảng ghi từ khóa hoặc ý tưởng quan trọng của chủ đề, học sinh làm bài tập. Với những nội dung giảng dạy mang tính chất bản lề làm tiền đề vào nội dung bài mới như phác họa lại bài cũ, hay hệ thống lại toàn bài được dành thực hiện ở phần bảng này. Phần thực hiện của học sinh sẽ được lưu giữ làm cơ sở so sánh với nội dung bài học trước (hệ thống bài) hoặc làm cơ sở để phát triển nội dung bài học mới.

Nghệ thuật trình bày của GV được thể hiện qua việc viết và trình bày nội dung trên bảng. Trong quá trình trình bày bảng cần bảo đảm các yêu cầu sau: Chữ viết, hình vẽ phải rõ ràng đủ để mọi người quan sát được. Ghi bảng đẹp, gọn, tập trung và bám lấy trọng tâm. Làm nổi bật tên bài và các đề mục: Tên bài (Ghi chữ in hoặc chữ thường với cỡ chữ to đậm); Đề mục (gạch chân, viết đậm…, khi đánh đề mục thì mục nhỏ lùi sâu hơn so với mục lớn theo thứ tự: I, 1, a, –, +). GV đứng xa bảng khoảng 20 cm và đứng sang một bên để tận dụng được ánh sáng, bảo đảm HS dễ quan sát, ghi chép và GV quan sát lại được HS. Cầm phấn thoải mái, khi viết bảng xoay đầu phấn theo chiều kim đồng hồ.

 Vẽ trên bảng: Nên vẽ phác trước, chỉ vẽ những hình đơn giản, đối với hình, sơ đồ phức tạp có thể chuẩn bị vẽ, in ra giấy khổ lớn, hoặc sử dụng máy chiếu.

 Xóa bảng: Theo nguyên tắc là những nơi nào xóa trước sẽ khô trước và chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc xóa từ trên xuống và từ trái sang phải như vậy sẽ đảm bảo chắc chắn bảng của bạn luôn ở tư thế sẵn sàng cho bạn viết, vẽ.

Mẹo nhỏ của giáo viên khi viết bảng: Luôn bẻ phấn ngắn (lý tưởng là 2 cm), mục đích tránh gãy phấn khi viết, đồng thời đề phòng trường hợp quên giáo án có thể lợi dụng cơ hội đổi phấn mới, ngó lại giáo án. Viết phấn, lau bảng chỉ sử dụng một tay, tay còn lại sử dụng để chấn chỉnh trang phục... Tránh khi mồ hôi nhiều, GV dùng tay để lau, phấn ra hết mặt mũi. Trong trường hợp quên kiến thức... GV quay lại lau bảng, vừa lau vừa nhớ lại.

4.     Kỹ năng giao tiếp sư phạm

Giao tiếp sư phạm là một nghệ thuật mà người GV cần rèn luyện hàng ngày. Muốn có kỹ năng giao tiếp sư phạm tốt người GV cần chú ý:

Một là, nhân cách mẫu mực trong giao tiếp sư phạm: GV hàng ngày tiếp xúc với HS, mọi hành vi, cử chỉ, cách nói năng của thầy cô đều trực tiếp tác động vào HS. Do vậy, nhân cách của GV đặc biệt là người GV dạy môn GDCD phải là người có nhân cách mẫu mực cho HS noi theo. Biểu hiện của nhân cách mẫu mực là: Sự mẫu mực về trang phục, hành vi cử chỉ, hành vi ngôn ngữ nói phải thống nhất; Thái độ phù hợp với các phản ứng hành vi; Sử dụng hành vi ngôn ngữ phong phú, phù hợp với tình huống, nội dung và đối tượng giao tiếp. Việc rèn luyện nhân cách mẫu mực tạo ra uy tín đảm bảo thành công trong giao tiếp sư phạm.

Cụ thể là GV không nên ăn mặc luộm thuộm, lôi thôi, hoặc loè loẹt, kiểu cách quá. Khi lên lớp GV cần có cử chỉ hoà nhã, đi đứng khoan thai, không hấp tấp vội vàng. Khi đứng lớp, GV cần giữ tư thế đứng nhiều hơn là ngồi, nếu có thể, nên đi tới gần bàn học sinh để tạo sự hòa đồng. Thái độ ôn tồn hoà nhã, sẵn sàng tiếp thu những ý kiến (dù là phản kháng, đối lập), không gằn gọc gắt gỏng. Khi giảng bài, người GV phải cố gắng rèn luyện cho được khả năng ngôn ngữ tổng hợp (ngôn ngữ nói + ngôn ngữ đàm thoại + ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ), để từ đó vận dụng vào nghệ thuật giảng dạy của mình, bằng cách sử dụng ngôn ngữ diễn cảm. Khi giảng bài cũng cần phải chú ý đến giọng nói, từ âm điệu đến âm độ khi thì hùng hồn đanh thép, lúc thì uyển chuyển mạch lạc, có khi thì thiết tha truyền cảm, đôi lúc lại dí dỏm vui tươi, khoan thai hóm hỉnh, khi bổng khi trầm, từng âm sắc chuyển theo mạch cảm xúc sẽ có giá trị thuyết phục cao.

Hai là, tôn trọng nhân cách trong giao tiếp: Trong giao tiếp coi học sinh là con người với đầy đủ các quyền được vui chơi, học tập, lao động, bình đẳng trong các mối quan hệ xã hội. Tôn trọng  nhân cách học sinh, có thể quan sát các biểu hiện: Biết lắng nghe học sinh trình bày ý muốn, nguyện vọng của mình, không nên ngắt lời học sinh; Biết thể hiện các phản ứng biểu cảm của mình một cách chân thành với HS; Không dùng các câu từ xúc phạm đến nhân cách học sinh; Tránh những hành vi bộc phát, ngẫu nhiên khi tiếp xúc với học sinh,... Tôn trọng nhân cách học sinh chính là tôn trọng nhân cách giáo viên.

Ba là, có thiện chí trong giao tiếp:Nhiệm vụ của GV là truyền đạt tri thức cho HS, với thiện chí của mình GV đem hết tài năng, trí lực ra hướng dẫn HS. Thiện ý của GV rõ nét nhất trong đánh giá, nhận xét HS khi làm bài. Trong trường hợp đặc biệt, GV “tạm ứng niềm tin” để HS phấn đấu vươn lên. Thiện ý còn thể hiện trong việc giao công việc của  lớp cho HS. Đôi lúc GV còn phải làm “trọng tài” phân xử việc mất sách giáo khoa, mất tiền,… những trường hợp này đòi hỏi GV đặc biệt là người GV dạy GDCD phải có hành vi ứng xử hướng thiện và hành thiện. Giúp HS nhận thức rằng khi GV trách phạt, phê bình, phạt lao động… đều xuất phát từ thiện ý tốt của  thầy cô vì sự trưởng thành nhân cách HS.

Bốn là, đồng cảm trong giao tiếp: Nguyên tắc này được hiểu là giáo viên biết đặt vị trí mình vào vị trí học sinh trong quá trình giao tiếp sư phạm. Nhờ có sự đồng cảm, giáo viên mới có biện pháp giảng dạy, giáo dục có hiệu quả. Đồng cảm là cơ sở hình thành mọi hành vi ứng xử nhân hậu, độ lượng, khoan dung đối với học sinh. Ngược với sự đồng cảm là cách giải quyết cứng nhắc theo nội quy mà áp dụng. Để thực hiện hành vi ứng xử với học sinh theo nguyên tắc này giáo viên phải quan tâm, tìm hiểu, nắm vững hoàn cảnh gia đình các em.
         Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm phân tích trên bao giờ cũng thống nhất, tác động qua lại biện chứng nhau. Những nguyên tắc này nhằm hoàn thiện nhân cách giáo viên góp phần xây dựng, phát triển nhân cách HS.

5. Kỹ năng xử lý tình huống sư phạm

Gần đây có nhiều vấn đề trong nhà trường phổ thông mà dư luận hết sức phẫn nộ như GV bắt HS xúc miệng bằng nước giặt giẻ lau bảng, GV lên lớp 4 tháng mà chỉ ghi bảng cho HS chép rồi đi chứ không giảng, GV bắt HS quỳ rất lâu khi mắc lỗi… Những GV đó là những người đang có vấn đề về nghệ thuật xử lý tình huống sư phạm. Muốn trở thành một nhà sư phạm khéo léo, tinh tế trong ứng xử, thành công trong việc giáo dục học sinh, GV cần phải có hiểu biết và tôn trọng các nguyên tắc ứng xử sư phạm sau:

Thứ nhất, tìm hiểu một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lý, tính cách, sở thích, thói quen… của từng em để có biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng.

Thứ hai, luôn giữ được sự bình tĩnh cần thiết trước mỗi tình huống sư phạm. Bình tĩnh để tìm hiểu một cách cặn kẽ, thấu đáo nguyên nhân của mỗi tình huống để có cách xử lý đúng đắn, hợp tình, hợp lý. “Hiểu người để dẫn đạo người”, đó là phương phâm cao quý của lao động sư phạm.

Thứ ba, luôn có ý thức tôn trọng học sinh, kể cả những khi học sinh có vi phạm, lỗi lầm với bản thân nhà giáo. Hãy biết tự kiềm chế để không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm học trò. Ở tuổi này, lòng tự tôn của các em rất cao, “chỉ một lời nói nhục mạ sẽ làm tan nát tâm hồn con trẻ” (Xukhômsinxki).

Thứ tư, luôn đặt mình vào địa vị của học sinh, vào hoàn cảnh của các em, cố gắng nhớ lại bản thân mình khi ở tuổi như các em để hiểu và thấu cảm. Hãy rút ngắn “khoảng cách thế hệ”, gần gũi và cảm thông chân thành, bao dung và độ lượng.

Thứ năm, luôn biết khích lệ, biểu dương các em kịp thời. Đối với học sinh, thầy cô giáo nên ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Học sinh nào cũng thích được thầy cô giáo biểu dương, vì thế, chúng ta không nên tiết kiệm lời khen của mình. Hãy khen ngợi những ưu điểm, sở trường của các em để các em cảm thấy giá trị của mình được nâng cao, có hứng thú học tập. Nhưng cũng cần chú ý, trong khi khen cũng không quên chỉ ra những thiếu sót của học sinh để các em khắc phục, không ngừng tiến bộ.

Thứ sáu, luôn thể hiện niềm tin vào sự hướng thiện của các em. Ngay cả khi các em mắc sai lầm, cũng phải tìm ra những ưu điểm, những mặt tích cực chứ không nên phê phán nặng nề. Đó chính là chỗ dựa, là nguồn khích lệ cho học sinh có động lực phát triển. Góp ý với học sinh về những thiếu sót, việc làm cụ thể, với một thái độ chân thành và yêu thương. Tuyệt đối không nêu những nhận xét chung chung có tính chất quy chụp và xúc phạm HS.

Thứ bảy, luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người thầy với học trò. Theo quy luật phản hồi tâm lý, tình cảm của thầy trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của trò. Dùng lòng nhân ái, đức vị tha giáo dục, cảm hóa học trò sẽ luôn đạt hiệu quả cao. Trong mỗi tình huống sư phạm, người GV cần phải bình tĩnh xem lại bản thân mình. “Nhân vô thập toàn”, nên hãy “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Nếu nhận ra sự thiếu sót, sai lầm của mình, hãy dũng cảm thừa nhận. Chắc chắn làm như thế, học sinh chẳng những không coi thường thầy cô mà còn rất cảm phục.

Việc vận dụng các quy tắc cơ bản nói trên vào việc xử lý các tình huống sư phạm là nghệ thuật của mỗi nhà giáo.

Trên đây là một số kỹ năng sư phạm trong dạy học môn Giáo dục công dân mà bản thân tôi đã học hỏi và sử dụng trong quá trình làm việc. Mỗi GV để có những bài giảng hay những giờ học thực sự cuốn hút học trò cần không ngừng nỗ lực học hỏi các thế hệ đồng nghiệp về tất cả các kỹ năng. Hy vọng những chia sẻ của tôi trong bài viết này sẽ giúp các bạn SV chuyên ngành Giáo dục Chính trị có thêm những kinh nghiệm bổ ích để tự tin hơn khi đứng lớp và thành công trong sự nghiệp trồng người.