NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI, VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI

TS: Lê Thị Hương

Tóm tắt: Trong bài viết, tác giả phân tích các yếu tố cơ bản có ảnh hưởng mạnh

mẽ đền sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người. Cụ

thế, tác giả phân tích các yếu tố: Thực tiễn lịch sử Việt Nam, tư tưởng của dân tộc Việt

Nam, tư tưởng của Nho giáo và Phật giáo, tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn Phương

Tây, tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh.

Từ khóa: Hồ Chí Minh, Con người, tư tưởng, nguồn gốc

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bất kỳ một học thuyết, tư tưởng, quan điểm nào trong lịch sử nhân loại ra đời cũng đều trên cơ

sở những điều kiện nhất định. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển ở thế kỷ XX không

nằm ngoài quy luật chung ấy. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến những yếu tố có sự

ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người.

NỘI DUNG

Thực tiễn lịch sử Việt Nam

Qúa trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, xây dựng

con người là quá trình đi từ thực tiễn đến lý luận, từ lý luận đến thực tiễn. Nó đòi hỏi phải

nắm chắc lý luận, tiếp thu những giá trị, yếu tố hợp lý trong tất cả các học thuyết, lý thuyết

về con người; đồng thời phải hiểu rõ những thực tiễn, những yêu cầu, xu hướng vận động

của thực tiễn.

Về mặt thực tiễn, ngoài việc chứng kiến những thành tựu của cuộc Cách mạng

Tháng Mười Nga 1917, khảo sát thực tiễn đời sống và thực tiễn đấu tranh chống đế quốc,

thực dân của nhân dân các nước trên thế giới mà Hồ Chí Minh đã đi qua thì thực tiễn lịch

sử Việt Nam là một trong những yếu tố cơ bản hình thành nên tư tưởng của Người về

con người, xây dựng con người.

Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để xâm lược Việt Nam. Sau

khi đánh chiếm nước ta, thực dân Pháp đã thiết lập bộ máy thống trị thực dân. Về kinh

tế, chúng thi hành chính sách bóc lột, khai thác thuộc địa dã man. Chúng ra sức khai

thác tài nguyên, vơ vét của cải của nhân dân ta mang về chính quốc. Chúng bóc lột

nhân dân ta đến tận xương tủy. Về chính trị, chúng thi hành chính sách chuyên chế với

bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị

 

2

 

người Pháp. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc

đấu tranh của nhân dân ta trong biển máu. Chúng thi hành chính sách chia để trị rất

thâm độc. Chúng chia nước ta thành ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng. Chúng

gây chia rẽ hận thù giữa các vùng, miền, dân tộc, dòng họ và giữa Việt Nam với các

nước trên thế giới, đặc biệt giữa Việt Nam với Lào và Campuchia. Về văn hóa, chúng thi

hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các

hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Chúng tìm mọi cách để bưng bít và ngăn

chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam. Chúng thi hành

chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.

Sự xâm lược, cai trị của thực dân Pháp, sự thối nát, bạc nhược của triều đình

phong kiến đã đẩy nhân dân ta vào cảnh một cổ hai tròng.

Sống trong nỗi thống khổ một cổ hai tròng, các tầng lớp nhân dân ta đã có những

cuộc đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột, bất công nhằm giành lại độc lập, tự do và

hạnh phúc. Đó là các phong trào: Phong trào Cần vương (1885 - 1896), một phong trào

đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động đã mở cuộc tấn công trại

lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng

(1885 - 1895). Cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Phong

trào Đông du của Phan Bội Châu. Phong trào Duy tân của Phan Châu Trinh. Phong trào

yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới diễn ra vào năm

1925 – 1926. Phong trào cách mạng quốc gia tư sản (1927 - 1930) gắn liền với tên tuổi

của Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính… Các cuộc

khởi nghĩa, phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi đã thể hiện tinh thần yêu nước của

người dân Việt Nam. Nhưng cuối cùng tất cả các cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước

đều bị đàn áp, bị dìm trong biển máu.

Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân bị nô lệ cùng với việc chứng kiến

nỗi khổ của nhân dân lao động trên thế giới bị áp bức, bóc lột, Hồ Chí Minh đã nhận

thức rằng, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng tàn bạo, độc ác, bất công,

người lao động ở đâu cũng bị áp bức, bóc lột, đày đọa; rằng, “…dù màu da có khác

nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột.

Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” [2, tr226]. Nhận

thức đó đã tạo nên sự thống nhất giữa tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh về con

người. Đó là hoài bão, lý tưởng yêu nước, thương dân, xúc động trước mọi nỗi đau của

đồng bào, nhân loại bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người gắn liền với ý chí đấu

tranh giải phóng con người trở thành động cơ, mục đích, khát vọng mãnh liệt suốt cả cuộc

đời của Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng, thực tiễn lịch sử Việt Nam đã góp phần làm sâu

đậm thêm lòng nhân ái của Người.

 

3

Tư tưởng của dân tộc Việt Nam

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, có thể nói, từ rất sớm, ông cha ta đã có sự quan

tâm đến vấn đề con người, xây dựng con người. Khi tiếp cận lịch sử dân tộc, với tư chất

thông minh, Hồ Chí Minh đã có những hiểu biết sâu sắc lịch sử tư tưởng dân tộc nói

chung cũng như tư tưởng về con người, xây dựng con người nói riêng. Người đã tiếp

thu, kế thừa và phát huy những giá trị tích cực trong tư tưởng về con người xây dựng con

người trong lịch sử dân tộc. Nhìn một cách tổng quát, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa

những giá trị tư tưởng đó ở một số điểm sau:

Một là, kế thừa triết lý về đạo làm người. Đạo làm người là một trong những vấn đề

được bàn đến nhiều trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Nội dung của nó là yêu nước, yêu độc

lập tự do, có ý thức về dân tộc, về cộng đồng dân tộc, ý chí tự lực tự cường, có lòng nhân

ái, bao dung, độ lượng, hiếu thảo, coi trọng tình nghĩa, kính trên nhường dưới, trung thực,

giản dị, kiên cường, bất khuất…

Là người được giáo dục kỹ lưỡng về đạo làm người, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc

những giá trị ấy trong lịch sử tư tưởng về con người, xây dựng con người của ông cha

ta. Phát triển triết lý về đạo làm người của dân tộc, trong điều kiện xã hội mới, Người cho

rằng, đạo lý sống của người cách mạng là yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị

áp bức, bóc lột, là đấu tranh nhằm làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành,

đem trí dân, sức dân làm lợi cho dân, sống với nhau có tình, có nghĩa. Trong suốt cuộc

đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng việc bồi dưỡng đạo lý làm người

cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Điều này không chỉ cho chúng ta thấy sự hiểu biết

sâu sắc quá trình phát triển nhân cách con người của Hồ Chí Minh, mà còn phản ánh

đậm nét việc Người kế thừa và nâng cao những giá trị nhân văn trong truyền thống văn

hóa của dân tộc.

Hai là, kế thừa và phát triển tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân

trong lịch sử dân tộc. Trong lịch sử dân tộc, vị trí, vai trò của con người luôn được đề

cao. Kế thừa và phát triển tư tưởng đó, Hồ Chí Minh coi quần chúng nhân dân là người

sáng tạo ra lịch sử, là chủ thế sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, là lực

lượng đông đảo của cuộc cách mạng, là mục tiêu và động lực của cuộc cách mạng.

Không chỉ có vậy, Hồ Chí Minh còn luôn tin vào sức mạnh của nhân dân, hết lòng

thương yêu nhân dân. Sự tin tưởng ấy, tình thương ấy của Người không bao giờ dừng

lại ở ý thức, tư tưởng mà trở thành ý chí quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu

tranh giải phóng con người, giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con

người.

Ba là, kế thừa và phát triển tư tưởng giáo dục trong điều kiện mới. Hồ Chí Minh

 

4

 

cho rằng giáo dục con người phải đủ đức, đủ tài, phải vừa hồng vừa chuyên, sống phải

có lý tưởng, phải có ý chí vươn lên để tự hoàn thiện mình ở mọi mặt, đem tài chí của

mình để xây dựng đất nước. Vì thế, khi đi thăm các nơi đào tạo cán bộ cao cấp của

Đảng và Nhà nước hay trong các bức thư gửi học sinh, các thầy cô giáo, cán bộ quản lý

ngành giáo dục, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải chú ý giáo dục ý thức đạo đức, ý thức

trách nhiệm công dân, đạo lý làm người, coi đó là những phẩm chất quan trọng của con

người trong xã hội mới.

Tư tưởng của Nho giáo và Phật giáo

Tư tưởng của Nho giáo

Nho giáo là một trường phái triết học của Trung Hoa cổ đại do Khổng Tử sáng lập

ra. Nổi bật nhất trong quan điểm con người là phạm trù Nhân của Khổng Tử. Cùng với

đó, Nho giáo cũng rất coi trọng vấn đề xây dựng con người thông qua vai trò của giáo

dục. Với một học vấn uyên thâm về Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá được những mặt

tích cực và hạn chế trong quan niệm của Nho giáo về con người và xây dựng con người;

đã khai thác và phát huy những yếu tố tích cực phù hợp với con người Việt Nam.

Một là, Hồ Chí Minh trân trọng mặt tích cực, tiến bộ trong quan điểm của Nho giáo

về con người. Đó là quan niệm cho rằng con người sống có lý tưởng, kiên cường, bất

khuất, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn.

Hai là, Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng của Nho giáo về xây dựng con người. Trong

xây dựng con người, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng đạo đức, coi đó là gốc của người

cách mạng. Người nói: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo

đức cách mạng. Đó là cái gốc rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có

tài cũng vô dụng” [6, tr. 329], Người nhấn mạnh rằng, chính tâm, tu thân là con đường

cơ bản để hoàn thiện nhân cách. Chính tâm, tu thân để trị quốc, bình thiên hạ.

Ba là, đề cao hiếu học và trọng học. Tiếp thu tư tưởng đó của Nho giáo, ngay sau

ngày đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ chống giặc dốt ngang

hàng với chống giặc đói, giặc ngoại xâm trong bối cảnh giặc đói vừa giết hại hơn hai

triệu đồng bào và giặc ngoại xâm đang đặt dân ta trước họa sống còn của Tổ quốc.

Bốn là, Hồ Chí Minh cũng phê phán những mặt tiêu cực trong tư tưởng của Nho

giáo về con người và xây dựng con người. Chẳng hạn, con người trong quan niệm của Nho

giáo là con người nghĩa vụ, không hề bộc lộ cá tính, không có sự phát triển toàn diện, dễ

bằng lòng với thực tại, sống theo tôn ti trật tự, đẳng cấp.

Tư tưởng của Phật giáo

Phật giáo ra đời vào thế kỷ VI trước công nguyên ở Ấn Độ trên vùng đất Nepan

ngày nay, do Phật Thích ca sáng lập. Nổi bật trong tư tưởng của Phật giáo là vấn đề đạo

đức trong triết lý nhân sinh. Quan niệm về đạo đức của Phật giáo là hướng con người

 

5

 

đến giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân.

Khi tiếp cận tư tưởng Phật giáo, Hồ Chí Minh đã khai thác những mặt tích cực,

phê phán những tiêu cực trong quan niệm về con người. Chẳng hạn, mặt tích cực của Phật giáo

là khuyên con người sống có đạo đức, từ bi, hỷ xả, sống giản dị, hướng tới cái thiện.

Nhân ngày Phật đản, Hồ Chí Minh viết: “Đời sống của nhân dân ta ngày càng được cải

thiện, cũng giống như tôn chỉ, mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần

mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui, ấm no”[5, tr. 290]. Trong thư gửi Hội nghị đại biểu Phật

giáo, năm 1964, Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Phật giáo cả nước, từ Bắc đến Nam đều

cố gắng thực hiện lời Phật dạy là: đem lại lợi ích vui sướng cho mọi người, quên mình vì

người khác” [6, tr. 315]. Trong cuộc sống hàng ngày, Hồ Chí Minh không chỉ khuyên con

người sống hướng tới cái thiện mà còn có những việc làm cụ thể thể hiện tính thiện của

Phật giáo. Chẳng hạn, Người quan tâm tới bữa ăn của giáo ngũ, quan tâm từ trẻ thơ đến

người già trong quần chúng nhân dân.

Phát triển tư tưởng nhập thế của Phật giáo trong lịch sử chống giặc ngoại xâm

của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc đạo như việc đời, hướng vào cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Người từng nói: Làm phật pháp không

xa rời thế gian, kêu gọi mọi người hãy tham gia cứu đói, diệt dốt. Hồ Chí Minh khẳng

định chủ nghĩa nhân bản cao đẹp của Phật giáo hướng vào nhân tố con người trong mọi

cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Phản đối chế độ bất công, chế độ đẳng cấp, đòi tự do, bình đẳng, dân chủ cho

mọi người, Hồ Chí Minh từng viết: “Đức Phật đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu

chúng sinh ra khỏi khổ nạn Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma” [4, tr. 197].

 

(CÒN NỮA)

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. C.Mác – Ph.Ăngghen, (1994), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

2. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

3. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

4. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

5. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

6. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

NHÂN LOẠI NỢ VIỆT NAM MỘT LỜI CẢM ƠN - THẾ GIỚI NỢ VIỆT NAM MỘT LỜI XIN LỖI

Sưu tầm - ThS: Nguyễn Hải Minh

Nhân loại NỢ Việt Nam MỘT LỜI CẢM ƠN – thế giới NỢ Việt Nam MỘT LỜI XIN LỖI

Tháng bảy, tháng tri ân, đa số các bạn trẻ khi được tôi hỏi đều ngơ ngác và không hiểu tại sao lại là tháng tri ân.

Tôi không trách các bạn vì các bạn còn trẻ, khá trẻ, các bạn sinh ra khi mảnh đất này không còn tiếng súng, không còn tiếng gầm rú của máy bay, không thấy được cái sống và cái chết chỉ cách nhau một lằn ranh mảnh mai hơn cả sợi tóc vì bom rơi súng nổ nên chưa thể nào hiểu được để có một đất nước hòa bình, thống nhất và ấm no như hiện nay đã có biết bao xương máu của các thế hệ cha anh đi trước ngã xuống.

Tôi chỉ thấy khá bất bình đối với một số người tuy khá lớn tuổi, có sự hiểu biết nhất định về lịch sử nhưng lại cố tình xuyên tạc lịch sử, phủ nhận sự hi sinh to lớn của dân tộc này.

Mấy hôm nay tôi thường trao đổi với một số bạn trên mạng, các bạn ví nước Mỹ như là “Cảnh sát của thế giới”, các bạn hay hỏi “Việt Nam đã làm gì cho thế giới hay chưa”,…. Ở phạm vi bài viết này tôi không phân tích các cuộc chiến tranh vệ quốc trước năm 1975 mà sẽ nói nhiều về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam giai đoạn 1978 – 1989 để các bạn thấy Việt Nam đã làm được gì cho thế giới.

Như chúng ta đã biết, chế độ diệt chủng của Khrme đỏ từ điều tra của Liên Hiệp Quốc báo cáo đã gây ra cái chết cho khoảng 2–3 triệu người, tổ chức UNICEF ước tính khoảng 3 triệu người, với khoảng một nửa chết vì bị hành quyết và số còn lại vì đói khát và bệnh tật cho chính nhân dân Campuchia. Ngoài ra chúng còn giết hàng ngàn người dân Việt Nam khi đưa quân sang xâm lấn biên giới (bạn nào có về An Giang nên đến thăm chùa Ba Chúc sẽ hiểu như thế nào là diệt chủng).

Ngày 13/12/1978, Khmer Đỏ đã huy động 10 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với chính người dân Campuchia. Ngày 23/12/1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân, bộ đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân Khmer Đỏ ra khỏi các vị trí dọc biên giới. Và chỉ sau 2 tuần, với những chiến dịch thần tốc, sức mạnh như vũ bão của đoàn quân Việt Nam bách chiến bách thắng, ngày 07/1/1979, Campuchia được hoàn toàn giải phóng.

Từ tháng 12/1977 đến 14/6/1978, Việt Nam thương vong 30.642 bộ đội, trong đó hy sinh 6.902 người. Hơn 30 vạn dân phải tản cư về phía sau, bỏ hoang 6 vạn ha đất bởi bàn tay Khmer Đỏ. Theo đó hiệp ước được ký bởi chính phủ mới của Campuchia với Việt Nam, quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục ở lại giúp nước bạn, máu chiến sỹ ta vẫn nhuộm đỏ mảnh đất này cho đến năm 1989 mới rút quân về nước. Trong chiến dịch phản công tự vệ và giúp bạn giải phóng đất nước, hơn 8.000 cán bộ chiến sỹ Quân tình nguyện Việt Nam đã ngã xuống. Trong 10 năm sau đó hàng vạn người con ưu tú của nước Việt tiếp tục đổ máu xương vì cuộc sống bình yên cho nhân dân nước bạn.

Lúc lính PônPốt thảm sát nhân dân VN ở các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Đồng Tháp, Long An… vô cùng man rợ, thậm chí đối với nhân dân Campuchia chúng còn không tha, chúng cai quản đất nước bằng máu và nước mắt thì Liên Hiệp Quốc ở đâu? Khi đó có ai sang Campuchia mới biết, có những cánh đồng lấy xác người làm phân bón, có những giếng nước bên dưới chỉ toàn xương người. Tại sao chế độ diệt chủng như thế mà Liên Hiệp Quốc, “cảnh sát của thế giới” ở đâu, các nước suốt ngày ra rả về nhân quyền ở đâu nhỉ? Tại sao thời điểm đó Việt Nam với muôn vàn khó khăn nhưng vẫn giúp Campuchia còn các nước khác lại không?

Để trả lời các câu hỏi trên chúng ta nghiên cứu một số dữ kiện như sau:

– Sau khi quân đội Việt Nam đánh bại Khmer Đỏ vào tháng 01/1979, Cộng hòa Nhân dân Campuchia (PRK) ra đời, cho mở lại các thành phố và trường học, nhưng vấp phải lệnh cấm vận từ Mỹ và Trung Quốc. Một cán bộ của Liên Hiệp Quốc kể lại rằng ông đến một trường học bị vây quanh bởi mìn và nghĩa địa. Có lớp học 50 học sinh nhưng chỉ có 8 cái bút. Có lớp học tổ chức dưới bóng cây, và tới mùa mưa phải dừng lại. Học sinh có em tới lớp trong tình cảnh “trần như nhộng”.

– Trong thời kỳ nạn diệt chủng xảy ra ở Campuchia, vì những lý do địa chính trị, cả Washington, Bắc Kinh, và Bangkok đều đồng thuận ủng hộ tiếp tục duy trì sự tồn tại của thể chế Khmer Đỏ. Khi Tổng thống Mỹ Gerald Ford tới thăm Indonesia ngày 06/12/1975, tài liệu ghi lại ông này đã trao đổi với Tổng thống Suharto như sau: “Chúng tôi sẵn lòng từng bước tạo dựng quan hệ với Campuchia với hi vọng có thể giúp làm giảm ảnh hưởng từ Bắc Việt Nam, dù chúng tôi biết rằng chính phủ Campuchia rất khó chơi”. Kissinger thì đánh giá rằng Bắc Kinh cũng đang thực thi chiến lược tương tự: “Người Trung Quốc muốn dùng Campuchia để cân bằng thế lực trước Việt Nam… Chúng ta đều không ưa Campuchia, chính phủ của họ thật tồi tệ, nhưng chúng ta muốn họ duy trì được độc lập. Vì vậy chúng ta không ngăn cản Thái Lan hoặc Trung Quốc tìm cách xích lại gần hơn với Campuchia”.

– Kể cả sau khi đã bị thất thế, chính quyền Khmer Đỏ vẫn nhận được sự hậu thuẫn gián tiếp âm thầm từ chính phủ Mỹ qua các đời Tổng thống, từ J.Carter, Ronal Reagan, tới Goerge H.Bush. Năm 1979, Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của J.Carter, từng khẳng định quan điểm tương tự như chính sách của Kissinger trước đây: “Tôi khuyến khích Trung Quốc hậu thuẫn Pôn Pốt. Tuy thể chế Pôn Pốt là đáng ghê tởm, chúng ta không bao giờ ủng hộ thể chế này, nhưng gián tiếp thông qua Trung Quốc thì có thể được”.

– Năm 1982, Mỹ và Trung Quốc khuyến khích Sihanouk gia nhập liên minh lưu vong với DK (Đảng Dân chủ Kampuchea – tức Khmer Đỏ). Ngoại trưởng Mỹ George Schultz từng từ chối ủng hộ đề xuất về một tòa án quốc tế xét xử tội phạm diệt chủng. Tới năm 1989, người kế nhiệm ông ta là James A. Baker thậm chí còn đề nghị cho Khmer Đỏ tham gia vào chính phủ Campuchia.

– Đồng hành với những chính sách và thái độ hậu thuẫn Khmer Đỏ từ các cường quốc là sự im lặng kéo dài 20 năm của Liên Hiệp Quốc đối với nạn diệt chủng xảy ra ở Campuchia. Năm 1988, các nước Đông Nam Á đã họp và thống nhất không cho phép bất cứ sự trở lại nào của “những chính sách và hoạt động mang tính diệt chủng của chính quyền Pôn Pốt”. Nhưng tới năm 1989, Đại Hội đồng Thành viên Liên Hiệp Quốc vẫn từ chối xác nhận những thủ phạm đã gây ra “những chính sách và hoạt động bị lên án rộng rãi trong quá khứ gần đây”. Năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an chỉ bày tỏ sự lấy làm tiếc về “một số chính sách và hoạt động trong quá khứ”, nhưng không nói một cách cụ thể, không nêu thủ phạm, và không nói rõ thời gian xảy ra.

– Năm 1990, Tiểu Ban Quyền Con người của Liên Hiệp Quốc từng cân nhắc lên án “nạn diệt chủng xảy ra dưới thời chính quyền Khmer Đỏ”, và yêu cầu các quốc gia “đưa ra trước tòa những thủ phạm gây tội ác chống lại loài người ở Campuchia, ngăn chặn những kẻ này quay trở lại các vị trí lãnh đạo trong chính phủ”. Tuy nhiên, Tiểu ban cuối cùng phải loại bỏ nội dung này trong chương trình, sau khi gặp phải một số ý kiến cho rằng nó “không có lợi” cho Liên Hiệp Quốc. Phải tới năm 1991 Tiểu Ban mới ra đề nghị “cộng đồng quốc tế ngăn chặn sự lặp lại của nạn diệt chủng ở Campuchia”. Vào thời điểm này, Washington đã cam kết ủng hộ việc đưa Khmer Đỏ ra tòa. Thế nhưng sang năm sau, giám đốc cơ quan Quyền Con người Liên Hiệp Quốc tại Campuchia lại phàn nàn rằng cơ quan này “hoàn toàn không có khả năng hoạt động tại một trong số các khu vực” ở Campuchia” – một lời phê phán yếu ớt về sự chống đối từ phía Khmer Đỏ. Ông này còn cố tình làm giảm nhẹ tính nghiêm trọng của nạn diệt chủng giai đoạn 1975-1979 bằng cách gọi thời gian này là một phần trong “những thập kỷ của xung đột, nổi dậy, và sự đối đầu”. Và cho đến tận năm 2006 chế độ diệt chủng Khmer Đỏ mới được đưa ra xét xử.

Suốt thời gian đó Mỹ, Trung Quốc và các nước khác đã đem lại cho Việt Nam được gì hay vịn vào cớ “xâm lược Campuchia” để cấm vận Việt Nam cho đến năm 1994 mới gỡ bỏ cấm vận kinh tế. Thử hỏi nếu Việt Nam không đưa quân sang đánh đổ Pôn Pốt thì Campuchia hiện giờ sẽ đi về đâu? Có tận mắt chứng kiến mới hiểu thế nào là tàn bạo, là dã man của chế độ đó, đến chùa Ba Chúc mới thấy được Pôn Pốt đã làm gì, không phải tự nhiên nhân dân Campuchia khi đó gọi QĐND Việt Nam là “Bộ đội nhà Phật”.

Nhân loại nợ Việt Nam một lời cám ơn, khi đã cứu cả một dân tộc khỏi họa diệt chủng, cứu thế giới khỏi bè lũ đồ tể khát máu Pôn Pốt, con đẻ từ chính sách khủng bố của Mỹ, Trung Quốc và bè lũ phương Tây nuôi dưỡng.

Thế giới nợ Việt Nam một lời xin lỗi, khi đã dồn người dân nước ta tới tận cùng của sự khổ cực, trong khi vẫn phải căng mình thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, lại đánh trả bọn bành trướng ở phía bắc bảo vệ Tổ Quốc. Việt Nam chỉ làm được cho thế giới bấy nhiêu thôi các bạn.

Còn đối với các nước suốt ngày rao giảng về nhân quyền, họ chỉ là những kẻ to mồm, họ chỉ vì lợi ích của bản thân họ. Họ lớn tiếng phán xét một đất nước nào đó chỉ vì họ lắm tiền nhiều của và ép buộc các nước khác nghe theo mà thôi.

Lịch sử không phải được viết bởi người chiến thắng, lịch sử được viết bởi xương máu và nước mắt của một dân tộc. Lịch sử một dân tộc có lúc thăng, lúc trầm nhưng lịch sử một dân tộc không phải dành cho những kẻ phán xét về nó.

Học lịch sử không phải để thi đạt điểm cao mà học lịch sử để hiểu và có cái nhìn đúng đắn, để hiểu rằng có ngày hôm nay dân tộc ta phải đánh đổi những gì và hiểu bản thân chúng ta có trách nhiệm như thế nào đối với Tổ Quốc.

Việt Nam rất sợ chiến tranh bởi chiến tranh không phải trò đùa nhưng Việt Nam cũng chưa bao giờ e ngại và sẵn sàng tiêu diệt bất cứ kẻ thù nào muốn xâm phạm một tấc đất linh thiêng của Tổ Quốc. Dân tộc Việt Nam chỉ đơn giản như vậy đó.

VỀ VIỆC GẮN LÍ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG GIẢNG DẠY LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ.

 

Th.s: Giang Quỳnh Hương (Sưu Tầm)

Lý luận là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp các tri thức

về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy trong quá trình lịch sử, tiêu chuẩn của một

lý luận khoa học là nó phản ánh đúng bản chất qui luật của đối tượng nhận thức

và phải được khái quát thành một hệ thống bao gồm các khái niệm phạm trù

nhất định. Lý luận giữ vai trò định hướng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con

người để nhằm đạt được kết quả cao nhất.

Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có tính xã hội – lịch sử của con

người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Thực tiễn có vai trò đặc biệt to lớn đối

với lí luận, là cơ sở, điểm xuất phát, là động lực cho sự phát triển của lí luận,

đồng thời là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.

Về vấn đề lý luận phải liên hệ thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định

“Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin… lý luận mà không liên hệ với thực tế là lý luận suông” 1 , đó là thứ

lý luận xa rời và không giúp ích gì cho thực tế cuộc sống. Lý luận là sự tổng kết

những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã

hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Nhưng lí luận không phải là một cái gì

đứng im, chết cứng mà nó luôn luôn cần đến thực tiễn để được thực tiễn bổ

sung, hoàn thiện bằng những kết luận mới trong những điều kiện, hoàn cảnh

mới. Mặt khác, lý luận là kết quả của tư duy trừu tượng, được khái quát hóa

thành những nguyên lí phổ biến, những quy luật; dó đó Người nói : lý luận “phải

cụ thể hóa … cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng nơi”. Và

một vấn đề nữa, theo Hồ Chí Minh lý luận liên hệ với thực tế còn là ở chỗ “mục

đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lí luận”. Người nói : “Lý

luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công

việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lí luận,

nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào cái một hòm đựng sách” 2 .

Giáo dục lí luận chính trị, theo Hồ Chí Minh, là giáo dục chính trị, truyền

 

bá chủ nghĩa Mác – Lênin, nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên

và quần chúng nhân dân, nhằm thống nhất về tư tưởng, ý chí, phẩm chất cách

mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dụng những

hiểu biết ấy vào cuộc sống. do đó, gắn lí luận với thực tiễn trong giáo dục lí luận

chính trị là nguyên tắc cơ bản.

Trên cơ sở xác định phương châm như vậy, Người yêu cầu người dạy và

người học phải tuân thủ theo những cách thức, phương pháp nhất định trong quá

trình giảng dạy và học tập lí luận chính trị.

Đối với giáo viên, Người căn dặn: “các chú dạy cán bộ, đảng viên về Chủ

nghĩa Mác – Lênin chắc có nhiều người thuộc, nhưng các chú có làm cho họ

hiểu Chủ nghĩa Mác – Lênin là thế nào không” 3 . “Trường Đảng là một trường

học để đào tạo những chiến sỹ tiên tiến phấn đấu cho sự nghiệp của giai cấp vô

sản, chứ không phải biến các đồng chí thành những người lí luận suông mà

nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí tốt hơn” 4 . “Đảng ta tổ chức

trường học lý luận cho cán bộ để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng để

giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế…, để Đảng ta

có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng

của mình” 5 .

Như vậy, đối với Trường Đảng và đội ngũ giảng viên, với mục đích cuối

cùng là để học viên “phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp cách mạng”. Vì thế, trong

quá trình giảng dạy, ngoài trang bị lý luận chính trị, người giảng viên phải gắn

với thực tiễn, bám sát tình hình thực tiễn để người học hiểu và nắm chắc lý luận.

Và quan trọng hơn, người giảng viên phải giúp cho học viên biết cách vận dụng

vận dụng lý luận vào thực tiễn.

Đối với người học, Người dạy: “Học lý luận không phải để nói mép…

Học để áp dụng vào việc làm. Làm mà không có lý luận thì không khác nào đi

mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được

mọi chuyện trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho

đúng” 6 . Người chỉ rõ: “Học tập Chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập tinh thần xử

trí mọi việc đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những

 

nguyên lí phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào

hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta. Học để làm, lý luận đi đôi với thực tiễn” 7 . Ngắn

gọn mà đầy đủ, sâu sắc, Người đã yêu cầu giáo dục lí luận chính trị phải biết gắn

lí luận với thực tiễn cuộc sống, công tác.

Quán triệt thực hiện tinh thần chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng

thời bám sát yêu cầu của chuyên ngành giảng dạy, trong thời gian qua, các giảng

viên phụ trách phần học “Nghiệp vụ công tác đoàn thể” (trước đây gọi là công

tác Dân vận) đã có nhiều cố gắng để nâng cao tính thực tiễn trong bài giảng và

đạt được những kết quả nhất định.

Từ thực tiễn công tác giảng dạy trong thời gian qua, chúng tôi suy nghĩ,

để nâng cao tính thực tiễn trong bài giảng lí luận chính trị cần quan tâm đến một

số vấn đề sau đây:

Trước hết, giảng viên phải nắm vững các nội dung lý luận mà mình đảm

nhiệm giảng dạy, để qua đó có sự lựa chọn đúng. Không phải tất cả các nội dung

lý luận trong bài giảng đều cần có liên hệ thực tế, mà chỉ ở những vấn đề nào

quan trọng, cần thiết nhấn mạnh, khó hiểu, hay muốn tăng thêm tính thuyết

phục…

Không chỉ vậy, nắm vững lí luận còn giúp giảng viên lựa chọn được loại

kiến thức thực tiễn nào, ở mức độ nào thì phù hợp. Như chúng ta biết, thực tiễn

rất rộng và đa dạng, như Hồ Chủ tịch đã nói : “Thực tế của chúng ta là những

vấn đề mà cách mạng đề ra cho ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao

gồm kinh nghiệm công tác tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của

Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới. Đó là những thực tế mà

chúng ta cần liên hệ …” 8. . Một vấn đề lí luận có thể có nhiều hiện tượng, hoạt

động thực tiễn để liên hệ, phân tích, chứng minh; và một bài giảng cần gắn lí

luận với thực tiễn không chỉ một, hai lần. Do đó để tránh sự trùng lặp, đơn điệu

cũng như để các liên hệ thực tiễn đưa vào bài giảng sát, phù hợp với những vấn

đề lí luận định làm rõ, chứng minh thì nhất thiết giảng viên phải nắm vững kiến

thức lí luận của từng tiết mục, từng bài và toàn bộ nội dung mà mình đảm

nhiệm.

 

Thứ hai, giảng viên phải thường xuyên bám sát thực tiễn. Kết hợp các

phương thức khác nhau để tiếp cận với các hình thức, các mức độ của thực tiễn.

Ví dụ: đi thực tế cơ sở (xã, phường, thị trấn, doanh nghiệp…), gặp gỡ trao đổi

với cán bộ, hội viên nông dân, phụ nữ, đến với các tổ chức công đoàn cơ sở gặp

gỡ cán bộ, đoàn viên công đoàn, công nhân; thăm quan các các mô hình lao

động sản xuất, để có thực tiễn trực tiếp sinh động, thời sự. Hoặc tích cực khai

thác thông tin ở các phương tiện thông tin đại chúng (đài, báo, tạp chí,

Internet,…) để có thực tiễn đa chiều, rộng lớn đã được chọn lọc, phân tích. Và

chịu khó nghiên cứu các tài liệu chính thống, nhất là các văn kiện Hội nghị, Đại

hội Đảng,…đây là dạng thực tiễn có độ tin cậy cao, vừa có tính cụ thể, vừa có

tính khái quát. Có thể nói, ở thời điểm hiện nay, giảng dạy phần học Nghiệp vụ

công tác đoàn thể ở cở sở có nhiều thuận lợi mà một phần nguyên nhân là nhờ

có hệ thống kiến thức thực tiễn từ các văn bản chính thống này. Ví dụ: giảng dạy

chuyên đề “Công tác vận động công nhân…”, khi liên hệ thực tiễn thì Văn kiện

Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khóa X (2008) “về tiếp tục xây dựng giai cấp

công nhân Việt Nam thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH” cung cấp nhiều số liệu, sự

kiện; hoặc khi giảng các chuyên đề “Công tác vận động nông dân…”, “Công tác

vận động phụ nữ…”, “Công tác vận động thanh niên…”, giảng viên có thể khai

thác được nguồn kiến thức thực tiễn phong phú, chất lượng từ các Nghị quyết

liên quan như: Nghị quyết 11 ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường

công tác phụ nữ trong thời kì mới, Nghị quyết 25 của BCHTW khóa X (2008)

về tăn cường sự lãnh đạo công tác thanh niên thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH,

Nghị quyết về Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn…

Thứ ba, nắm bắt được đối tượng học viên.

Cùng một chuyên đề nhưng giảng dạy tại các lớp học vùng thành phố, đồng

bằng, không thể đồng nhất với các lớp vùng trung du, miền núi, hoặc giảng dạy

tại các lớp đại đa số học viên là thanh niên thế hệ trẻ, không thể giống với lớp đa

số học viên lớn tuổi. Nắm bắt được đối tượng sẽ giúp lựa chọn kiến thức thực

tiễn hoặc cách khai thác nhấn mạnh khía cạnh nào trong cùng một sự kiện để

phù hợp đối tượng..

 

Thứ tư, phải đảm bảo tính khoa học khi đưa các yếu tố thực tiễn vào bài giảng

đó là: yếu tố thực tiễn đưa vào bài giảng phải có tính điển hình, tính thời sự, tính

chính xác, có địa chỉ rõ ràng và phù hợp nội dung lí luận đang cần được phân

tích chứng minh.

Và tiếp đến là lòng yêu nghề, có lẽ đây là một trong những yếu tố quan

trọng bậc nhất. Trên nền tảng nắm vững lí luận, bám sát thực tiễn, lòng yêu nghề

sẽ thổi hồn cho bài giảng chính trị trong điều kiện hiện nay.

Tài liệu tham khảo:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hn 1995, tập 8, tr496.

2. (Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG HCM, 1995, tập 5, tr 234)

3. Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, HN 1995, tập 2, tr259

4. Sđd, tập 8, tr496)

5. Sđd, tập 8, tr492

6. (Sđd, tập 6, tr47)

7.(Sđd, tập 9, tr292)

8.(Hồ Chí Minh: Về trí thức và cách mạng, Nxb ST, HN, 1976, tr59)

 

 

LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA NGÀY GIA ĐÌNH VIỆT NAM 28/06

 

                                                                       Nguyễn Thị Thu Châu

Khoa lý luận chính trị - ĐH Tây Bắc

Gia đình là một tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc muốn tồn tại và phát triển đều phải biết chăm sóc và bảo vệ gia đình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, việc quan tâm đến gia đình là đúng vì: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình".

1. Lịch sử Ngày Gia đình Việt Nam

Thực hiện lời Bác, ngày 28/6/2000, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 55- CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng của cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Ngày 04/5/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg về ngày Gia đình Việt Nam. Quyết định nêu rõ: lấy ngày 28/6 hàng năm là ngày Gia đình Việt Nam,nhằm đề cao trách nhiệm lãnh đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức xã hội cùng toàn thể các gia đình thường xuyên quan tâm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

2. Ý nghĩa Ngày Gia đình Việt Nam

Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc. Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được gia đình Việt Nam giữ gìn, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước.

Qua nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn còn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.

Ngày Gia đình Việt Nam là một sự kiện văn hóa lớn nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam, là dịp để các gia đình giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng gia đình văn hóa, hướng tới sự phát triển bền vững của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Đây cũng là ngày mọi người trong gia đình quan tâm đến nhau, xã hội quan tâm đến trẻ nhỏ và những người không có bố mẹ, cặp vợ chồng phải hiểu được giá trị mái ấm và cùng nhau vượt qua sóng gió để có một gia đình hạnh phúc.

 
 

3. Cách thu hẹp khoảng cách thế hệ trong các gia đình

1. Giao tiếp hiệu quả 

Giao tiếp là một cách rất quan trọng để thu hẹp khoảng cách giữa các thế hệ. Nói chuyện với con trẻ, hiểu thế giới của chung, và cố gắng giúp chúng hiểu sự khác biệt như thế nào giữa thế hệ trước với thế hệ sau. Chính sự tương tác này giúp cho hai hoặc nhiều thế hệ có thể dần hiểu được những thói quen, lối suy nghĩ, truyền thống của nhau, qua đó hiểu và nhận diện được những sự khác biệt này một cách rõ ràng nhất, tránh xảy ra những hiểu lầm sau này. Lắng nghe và chấp nhận những suy nghĩ của họ. Một sự giao tiếp cởi mở là một cách rất lành mạnh để thu hẹp khoảng cách thế hệ. 

2. Hãy cập nhật các xu hướng hiện tại 

Nếu bạn muốn hiểu và bắt kịp với những tiến bộ mà con trẻ đang áp dung, bạn cần phải hiểu về thế giới của chúng, ngôn ngữ chúng sử dụng, và biết các xu hướng và công nghệ mà khiến giới trẻ hiện nay phát sốt. Nếu bạn làm được như vậy, thông tin liên lạc giữa bạn và thế hệ sau sẽ dễ dàng hơn và bạn cũng có thể để mắt đến chúng nhiều hơn.

3. Đừng so sánh 

Mỗi một thế hệ đều được sinh ra và trưởng thành trong những môi trường, hoàn cảnh khác nhau. Đừng bao giờ ép buộc các thế hệ sau phải suy nghĩ hay so sánh hành động chúng làm với giai đoạn sống của mình. Nếu lối suy nghĩ cổ hủ này bị ăn sâu vào những thế hệ tiếp, chúng sẽ khiến con trẻ trở thành những kẻ tụt hậu trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Hãy chấp nhận thực tế đó là mọi thứ xung quanh đã thay đổi đáng kể so với quá khứ khi bạn lớn tuổi. Vì vậy, đừng so sánh và hãy cho phép thế hệ sau được tận hưởng và sống trong cái thế giới thực tại chúng được sinh ra các bạn nhé! 

4. Sự linh hoạt 

Sự linh hoạt là điều mà các bậc phụ huynh cần nhớ khi muốn thu hẹp khoảng cách với con cái. Sự linh hoạt này cần phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của con trẻ để giúp chúng phát triển một cách đúng và không được đi quá đà. Vai trò của các bậc phụ huynh là điều không kém phần quan trọng. Cha mẹ nên dễ chấp nhận thay đổi và linh hoạt hơn trong ý tưởng của họ. Bạn cần phải hiểu được nhu cầu ngày càng tăng của trẻ em của bạn và giúp họ phát triển theo thời gian. 

5. Dạy thế hệ sau về những giá trị cốt lõi gia đình 

Thời gian cố thể tiếp tục thay đổi nhưng điều đó không có nghĩa là những giá trị truyền thống, cót lõi của gia đình bị mai một, mất đi. Các bậc phụ huynh cần dạy cho con trẻ việc tôn trọng và tuân theo những giá trị này một phần là truyền thống thật nhưng chúng sẽ giúp cho chúng trở thành những con người đứng đắn, có nhân cách mặc dù sống trong thế giới hiện đại.

Các thông điệp truyền thông cho ngày Gia đình Việt Nam là:

1. Toàn dân tích cực ưởng ứng Ngày Gia đình Việt Nam 28/6;   

2. Bữa cơm gia đình ấm áp yêu thương;   

3. Gia đình là nơi bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc; 

4. Xây dựng nhân cách người Việt Nam từ truyền thống tốt đẹp trong gia đình;   

5. Gia đình là tế bào của xã hội, thành trì của Tổ quốc;   

6. Xây dựng môi trường văn hóa gia đình - cộng đồng - xã hội văn minh

7. Hãy hành động vì một mái ấm gia đình không có bạo lực./.

                                                                                           St.

MỘT SỐ KỸ NĂNG SƯ PHẠM TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG THPT

 

ThS. Nguyễn Thị Hương

Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định: “Nghề dạy học là nghề cao quý bậc nhất trong các nghề cao quý của xã hội xã hội chủ nghĩa. Các nghề trong chế độ ta đều sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần… Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”. Một GV giỏi không chỉ là người có chuyên môn tốt mà còn phải thành thạo những kĩ năng nghiệp vụ sư phạm. Thực tế cho thấy, đã không ít trường hợp SV tốt nghiệp loại giỏi, khá ở trường nhưng ra trường vẫn không đáp ứng được yêu cầu của công việc, chưa khẳng định được vị thế của mình trong nghề nghiệp và xã hội. Vì vậy, việc rèn luyện các kỹ năng sư phạm cho những người GV tương lai là một nội dung quan trọng trong các trường đào tạo ngành sư phạm. Để dạy học môn GDCD ở trường THPT đạt hiệu quả tốt người giáo viên cần trang bị cho mình rất nhiều các kỹ năng. Sau đây tôi xin chia sẻ với các bạn SV ngành GDCT một số kỹ năng cơ bản sau:

1. Kỹ năng thiết kế giáo án

Giáo án là kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Nhiều nhà giáo dục học nổi tiếng đã chứng minh thực tế là 60% chất lượng giờ dạy tốt là tùy thuộc vào khâu chuẩn bị soạn giáo án còn lại 40% là tùy thuộc vào năng lực sư phạm và kinh nghiệm của người thầy. Vì vậy GV muốn giảng dạy tốt phải nghiêm túc trong việc soạn giáo án.

Thiết kế giáo án một kỹ năng quan trọng, là kỹ thuật trí tuệ đòi hỏi GV phải có tư duy khoa học, khả năng ước lượng để lựa chọn kiến thức chuẩn xác, đủ về khối lượng để giáo án không bị cháy. Để HS có thể nắm được kiến thức, GV cần lựa chọn PPDH phù hợp với nội dung và đối tượng, phát huy được tính chủ động sáng tạo, của người học. Khi soạn giáo án, GV cần có những kỹ năng nhất định như: kỹ năng xác định mục tiêu, kỹ năng lựa chọn nội dung bài học, kỹ năng lựa chọn PPDH

* Khi xác định mục tiêu, GV cần khẳng định được những kỹ năng người học cần đạt được sau bài học. Những kỹ năng đó cần phải phù hợp với chuẩn kiến thức kỹ năng mà Bộ GD ĐT quy định, phù hợp với trình độ của đối tượng học và phải được biểu đạt bằng những từ chỉ hành động cụ thể, ví dụ: trình bày, phân tích, giải thích, mô tả,…

* Dẫn nhập để tạo tâm thế tích cực cho người học là một phần việc quan trọng. GV có thể giới thiệu một hình ảnh, kể câu chuyện, nêu một vấn đề cần giải quyết… Không nên lúc nào cũng rập khuôn bằng một câu chuyển giảng, nếu người học không cảm thấy hứng thú, giờ học sẽ không hiệu quả. Khi thể hiện phần dẫn nhập trong giáo án, GV chỉ cần nêu tên hoạt động, không cần thiết phải thể hiện chi tiết câu chuyện, vấn đề mình dự định sẽ nói. (Tuy nhiên đối với giáo sinh kiến thực tập các em nên thể hiện chi tiết câu chuyện, vấn đề mình cần nói để chủ động hơn, logic hơn, không bị lúng túng trên bục giảng)
          * Lựa chọn nội dung bài học, GV cần tránh nhầm lẫn với nội dung chương trình. Chúng ta chỉ nên đưa vào giáo án những nội dung cần thiết, phù hợp đối tượng học, không nhất thiết phải lo lắng khi loại bỏ một số nội dung chương trình ra khỏi giáo án. Chỉ cung cấp những gì người học cần chứ không phải những gì chúng ta có. (Ngay cả trong phân phối chương trình cũng rất linh hoạt, cho phép GV lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp với đặc điểm vùng miền)

* Thiết kế hoạt động dạy học là một công việc cần sự đầu tư kỹ lưỡng của GV. Đây là phần trọng tâm, thể hiện toàn bộ kịch bản của giờ dạy. Những phương pháp nào cần phải vận dụng, những tình huống học tập nào cần đưa vào bài… Để thiết kế hoạt động dạy – học cho 1 giờ học thường gồm 5 bước: Bước 1: Phân tích nội dung học tập; Bước 2: Phân tích kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm hiện có của HS; Bước 3: Xây dựng tình huống học tập; Bước 4: Thiết kế hoạt động của HS; Bước 5: Thiết kế hoạt động tổ chức và hướng dẫn

Khi thể hiện trong giáo án, người GV cần nêu rõ cách thức triển khai hoạt động cụ thể của giáo viên và học sinh, đồng thời nêu rõ mục tiêu của các hoạt động đó, tránh việc chỉ nêu tên phương pháp (Giáo án mới được áp dụng yêu cầu ghi rõ hoạt động dạy học chứ không phải là nêu tên PP như mẫu cũ trước kia).

Trong quá trình thực hiện các hoạt động dạy học, GV cần sử dụng nhiều PP khác nhau để tránh gây nhàm chán cho người học, điều quan trọng là dù sử dụng PP nào thì cũng không nên kéo dài quá 20 phút với một PP.

* Lựa chọn phương tiện dạy học, GV cần xem xét đến các yếu tố cơ bản sau: Mục đích sư phạm cụ thể; Đặc điểm môn học; Mục tiêu học tập chung; Đặc điểm đối tượng; Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc dạy học và điều kiện cơ sở vật chất thực tế của nhà trường.

Thiết kế giáo án là một công việc thường xuyên của GV trước khi lên lớp. Một khi giáo án được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu thì sẽ giúp cho GV có được sự tự tin, từ đó quyết định rất lớn đến sự thành công của GV trong giờ giảng.

2. Kỹ năng xây dựng bài giảng điện tử

Hiện nay cơ sở vật chất phục vụ quá trình dạy học ngày càng được trang bị đầy đủ, việc ứng dụng CNTT vào dạy học ngày càng trở nên phổ biến. Vậy người GV cần ứng dụng CNTT trong dạy học môn GDCD như thế nào để đạt hiệu quả cao?

Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn GDCD kho tư liệu là điều 
kiện cần thiết và đặc biệt quan trọng vì đặc trưng của bộ môn GDCD là bộ môn 
trang bị cho học sinh hệ thống những tri thức đa dạng, phong phú: Triết học, đạo 
đức, chính trị, pháp luật. Những bài dạy về đạo đức, chính trị, pháp luật đòi hỏi 
có tính thực tiễn cao. Do vậy giáo viên dạy GDCD phải chú trọng cập nhật những thông tin, số liệu mới phục vụ cho quá trình giảng dạy đạt được hiệu quả. 

- Trước đây giáo viên xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo tài 
liệu, sách báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tư liệu. Hiện nay việc 
ứng dụng CNTT giúp giáo viên xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú, 
khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước, việc khai thác tư liệu có 
thể lấy từ các nguồn: Khai thác thông tin, tranh ảnh từ mạng internet.  Khai thác từ băng hình, phim, video, các phần mềm tranh ảnh, bản đồ, hình 
vẽ... thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính. Khai thác các hình ảnh tĩnh, động, các phần mềm trên các đĩa CD- ROM, 
VCD... Chỉ cần kích chuột vào insert /Picture /prom file... vào ổ đĩa CD-ROM lựa chọn tranh, ảnh, hình vẽ cần tìm rồi đưa vào bài giảng.

Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư 
liệu phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu 
trữ thành các file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng như: các dữ liệu về hình ảnh dân số, tài nguyên và mô 
trường, về vấn đề ATGT, về các tệ nạn xã hội, về các hoạt động đền ơn đáp 
nghĩa, về các thắng cảnh của quê hương đất nước, và một số di tích lịch sử của 
địa phương và của đất nước…

Chúng ta có thể sử dụng giáo án điện tử để dạy các bài có tính chất thuyết 
trình, kiến thức trừu tượng, đặc biệt là những bài học mà có thể khai thác các tư 
liệu, hình ảnh, video, phần mềm ... 

* Quy trình thiết kế một bài giảng điện tử: 

         - Xác định rõ mục tiêu bài dạy

         - Xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm. 

- Lựa chọn tư liệu tranh, ảnh, phim, thông tin cần thiết phục vụ bài dạy.

- Lựa chọn các phần mềm, trình diễn, hiệu ứng ... để xây dựng tiến trình dạy học thông qua hoạt động cụ thể.

- Chạy thử, sửa chữa và hoàn thiện bài giảng.

3. Kỹ năng trình bày bảng

Trình bày bảng cũng là một kỹ năng quan trọng của mỗi GV khi đứng lớp. Khi trình bày bảng người GV cần chú ý thực hiện đúng các bước sau:

Bước 1 - Quan sát và kiểm tra bảng: Ở bước này phải chắc là mặt bảng sạch, bảng đã được bắt cố định, chắc chắn không rung. Đồng thời giáo viên cũng nên lập dàn ý nội dung viết chính xác, dự kiến cách bố trí nội dung lên bảng.

Bước 2 - Chia bảng: Thông thường GV đều chia thành ba phần đều nhau bằng phấn. Việc phân chia này sẽ đảm bảo các nội dung GV trình bày trên bảng là đầy đủ, khoa học.

Bước 3 - Sử dụng bảng: Với việc đã phân chia bảng thành 3 phần riêng biệt như trên thì trong quá trình trình bày bảng giáo viên nên lưu ý:

Phần giữa bảng bên trên ghi tên bài. Ghi bằng chữ in hoặc chữ thường cỡ chữ to, có thể dùng phấn màu gạch chân tên bài giảng.

Phần bên trái bảng viết dàn bài, giữ cố định không xóa (trong suốt quá trình giảng bài). Đây được xác định như xương sống của bài giảng. Bài học gồm những nội dung cơ bản nào được liệt kê và ghi rõ vào đây. Với những nội dung bài giảng cụ thể, ngoài việc kết hợp các phương pháp giảng dạy khác nhau và những phương tiện kỹ thuật cần thiết thì việc giáo viên ghi những đề mục, dàn bài lên bảng sẽ đảm bảo việc ghi nhớ cho người học sau tiết giảng vì người học có thể ghi và lưu giữ kiến thức bài học thông qua những nội dung, dàn ý này.

Phần giữa bảng dùng để giải thích, vẽ, phân tích, xóa thường xuyên. Những kiến thức liên quan đến nội dung giảng dạy được giáo viên sử dụng và thể hiện ở nội dung phần trung tâm của bảng.

Phần bên phải bảng ghi từ khóa hoặc ý tưởng quan trọng của chủ đề, học sinh làm bài tập. Với những nội dung giảng dạy mang tính chất bản lề làm tiền đề vào nội dung bài mới như phác họa lại bài cũ, hay hệ thống lại toàn bài được dành thực hiện ở phần bảng này. Phần thực hiện của học sinh sẽ được lưu giữ làm cơ sở so sánh với nội dung bài học trước (hệ thống bài) hoặc làm cơ sở để phát triển nội dung bài học mới.

Nghệ thuật trình bày của GV được thể hiện qua việc viết và trình bày nội dung trên bảng. Trong quá trình trình bày bảng cần bảo đảm các yêu cầu sau: Chữ viết, hình vẽ phải rõ ràng đủ để mọi người quan sát được. Ghi bảng đẹp, gọn, tập trung và bám lấy trọng tâm. Làm nổi bật tên bài và các đề mục: Tên bài (Ghi chữ in hoặc chữ thường với cỡ chữ to đậm); Đề mục (gạch chân, viết đậm…, khi đánh đề mục thì mục nhỏ lùi sâu hơn so với mục lớn theo thứ tự: I, 1, a, –, +). GV đứng xa bảng khoảng 20 cm và đứng sang một bên để tận dụng được ánh sáng, bảo đảm HS dễ quan sát, ghi chép và GV quan sát lại được HS. Cầm phấn thoải mái, khi viết bảng xoay đầu phấn theo chiều kim đồng hồ.

 Vẽ trên bảng: Nên vẽ phác trước, chỉ vẽ những hình đơn giản, đối với hình, sơ đồ phức tạp có thể chuẩn bị vẽ, in ra giấy khổ lớn, hoặc sử dụng máy chiếu.

 Xóa bảng: Theo nguyên tắc là những nơi nào xóa trước sẽ khô trước và chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc xóa từ trên xuống và từ trái sang phải như vậy sẽ đảm bảo chắc chắn bảng của bạn luôn ở tư thế sẵn sàng cho bạn viết, vẽ.

Mẹo nhỏ của giáo viên khi viết bảng: Luôn bẻ phấn ngắn (lý tưởng là 2 cm), mục đích tránh gãy phấn khi viết, đồng thời đề phòng trường hợp quên giáo án có thể lợi dụng cơ hội đổi phấn mới, ngó lại giáo án. Viết phấn, lau bảng chỉ sử dụng một tay, tay còn lại sử dụng để chấn chỉnh trang phục... Tránh khi mồ hôi nhiều, GV dùng tay để lau, phấn ra hết mặt mũi. Trong trường hợp quên kiến thức... GV quay lại lau bảng, vừa lau vừa nhớ lại.

4.     Kỹ năng giao tiếp sư phạm

Giao tiếp sư phạm là một nghệ thuật mà người GV cần rèn luyện hàng ngày. Muốn có kỹ năng giao tiếp sư phạm tốt người GV cần chú ý:

Một là, nhân cách mẫu mực trong giao tiếp sư phạm: GV hàng ngày tiếp xúc với HS, mọi hành vi, cử chỉ, cách nói năng của thầy cô đều trực tiếp tác động vào HS. Do vậy, nhân cách của GV đặc biệt là người GV dạy môn GDCD phải là người có nhân cách mẫu mực cho HS noi theo. Biểu hiện của nhân cách mẫu mực là: Sự mẫu mực về trang phục, hành vi cử chỉ, hành vi ngôn ngữ nói phải thống nhất; Thái độ phù hợp với các phản ứng hành vi; Sử dụng hành vi ngôn ngữ phong phú, phù hợp với tình huống, nội dung và đối tượng giao tiếp. Việc rèn luyện nhân cách mẫu mực tạo ra uy tín đảm bảo thành công trong giao tiếp sư phạm.

Cụ thể là GV không nên ăn mặc luộm thuộm, lôi thôi, hoặc loè loẹt, kiểu cách quá. Khi lên lớp GV cần có cử chỉ hoà nhã, đi đứng khoan thai, không hấp tấp vội vàng. Khi đứng lớp, GV cần giữ tư thế đứng nhiều hơn là ngồi, nếu có thể, nên đi tới gần bàn học sinh để tạo sự hòa đồng. Thái độ ôn tồn hoà nhã, sẵn sàng tiếp thu những ý kiến (dù là phản kháng, đối lập), không gằn gọc gắt gỏng. Khi giảng bài, người GV phải cố gắng rèn luyện cho được khả năng ngôn ngữ tổng hợp (ngôn ngữ nói + ngôn ngữ đàm thoại + ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ), để từ đó vận dụng vào nghệ thuật giảng dạy của mình, bằng cách sử dụng ngôn ngữ diễn cảm. Khi giảng bài cũng cần phải chú ý đến giọng nói, từ âm điệu đến âm độ khi thì hùng hồn đanh thép, lúc thì uyển chuyển mạch lạc, có khi thì thiết tha truyền cảm, đôi lúc lại dí dỏm vui tươi, khoan thai hóm hỉnh, khi bổng khi trầm, từng âm sắc chuyển theo mạch cảm xúc sẽ có giá trị thuyết phục cao.

Hai là, tôn trọng nhân cách trong giao tiếp: Trong giao tiếp coi học sinh là con người với đầy đủ các quyền được vui chơi, học tập, lao động, bình đẳng trong các mối quan hệ xã hội. Tôn trọng  nhân cách học sinh, có thể quan sát các biểu hiện: Biết lắng nghe học sinh trình bày ý muốn, nguyện vọng của mình, không nên ngắt lời học sinh; Biết thể hiện các phản ứng biểu cảm của mình một cách chân thành với HS; Không dùng các câu từ xúc phạm đến nhân cách học sinh; Tránh những hành vi bộc phát, ngẫu nhiên khi tiếp xúc với học sinh,... Tôn trọng nhân cách học sinh chính là tôn trọng nhân cách giáo viên.

Ba là, có thiện chí trong giao tiếp:Nhiệm vụ của GV là truyền đạt tri thức cho HS, với thiện chí của mình GV đem hết tài năng, trí lực ra hướng dẫn HS. Thiện ý của GV rõ nét nhất trong đánh giá, nhận xét HS khi làm bài. Trong trường hợp đặc biệt, GV “tạm ứng niềm tin” để HS phấn đấu vươn lên. Thiện ý còn thể hiện trong việc giao công việc của  lớp cho HS. Đôi lúc GV còn phải làm “trọng tài” phân xử việc mất sách giáo khoa, mất tiền,… những trường hợp này đòi hỏi GV đặc biệt là người GV dạy GDCD phải có hành vi ứng xử hướng thiện và hành thiện. Giúp HS nhận thức rằng khi GV trách phạt, phê bình, phạt lao động… đều xuất phát từ thiện ý tốt của  thầy cô vì sự trưởng thành nhân cách HS.

Bốn là, đồng cảm trong giao tiếp: Nguyên tắc này được hiểu là giáo viên biết đặt vị trí mình vào vị trí học sinh trong quá trình giao tiếp sư phạm. Nhờ có sự đồng cảm, giáo viên mới có biện pháp giảng dạy, giáo dục có hiệu quả. Đồng cảm là cơ sở hình thành mọi hành vi ứng xử nhân hậu, độ lượng, khoan dung đối với học sinh. Ngược với sự đồng cảm là cách giải quyết cứng nhắc theo nội quy mà áp dụng. Để thực hiện hành vi ứng xử với học sinh theo nguyên tắc này giáo viên phải quan tâm, tìm hiểu, nắm vững hoàn cảnh gia đình các em.
         Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm phân tích trên bao giờ cũng thống nhất, tác động qua lại biện chứng nhau. Những nguyên tắc này nhằm hoàn thiện nhân cách giáo viên góp phần xây dựng, phát triển nhân cách HS.

5. Kỹ năng xử lý tình huống sư phạm

Gần đây có nhiều vấn đề trong nhà trường phổ thông mà dư luận hết sức phẫn nộ như GV bắt HS xúc miệng bằng nước giặt giẻ lau bảng, GV lên lớp 4 tháng mà chỉ ghi bảng cho HS chép rồi đi chứ không giảng, GV bắt HS quỳ rất lâu khi mắc lỗi… Những GV đó là những người đang có vấn đề về nghệ thuật xử lý tình huống sư phạm. Muốn trở thành một nhà sư phạm khéo léo, tinh tế trong ứng xử, thành công trong việc giáo dục học sinh, GV cần phải có hiểu biết và tôn trọng các nguyên tắc ứng xử sư phạm sau:

Thứ nhất, tìm hiểu một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lý, tính cách, sở thích, thói quen… của từng em để có biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng.

Thứ hai, luôn giữ được sự bình tĩnh cần thiết trước mỗi tình huống sư phạm. Bình tĩnh để tìm hiểu một cách cặn kẽ, thấu đáo nguyên nhân của mỗi tình huống để có cách xử lý đúng đắn, hợp tình, hợp lý. “Hiểu người để dẫn đạo người”, đó là phương phâm cao quý của lao động sư phạm.

Thứ ba, luôn có ý thức tôn trọng học sinh, kể cả những khi học sinh có vi phạm, lỗi lầm với bản thân nhà giáo. Hãy biết tự kiềm chế để không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm học trò. Ở tuổi này, lòng tự tôn của các em rất cao, “chỉ một lời nói nhục mạ sẽ làm tan nát tâm hồn con trẻ” (Xukhômsinxki).

Thứ tư, luôn đặt mình vào địa vị của học sinh, vào hoàn cảnh của các em, cố gắng nhớ lại bản thân mình khi ở tuổi như các em để hiểu và thấu cảm. Hãy rút ngắn “khoảng cách thế hệ”, gần gũi và cảm thông chân thành, bao dung và độ lượng.

Thứ năm, luôn biết khích lệ, biểu dương các em kịp thời. Đối với học sinh, thầy cô giáo nên ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Học sinh nào cũng thích được thầy cô giáo biểu dương, vì thế, chúng ta không nên tiết kiệm lời khen của mình. Hãy khen ngợi những ưu điểm, sở trường của các em để các em cảm thấy giá trị của mình được nâng cao, có hứng thú học tập. Nhưng cũng cần chú ý, trong khi khen cũng không quên chỉ ra những thiếu sót của học sinh để các em khắc phục, không ngừng tiến bộ.

Thứ sáu, luôn thể hiện niềm tin vào sự hướng thiện của các em. Ngay cả khi các em mắc sai lầm, cũng phải tìm ra những ưu điểm, những mặt tích cực chứ không nên phê phán nặng nề. Đó chính là chỗ dựa, là nguồn khích lệ cho học sinh có động lực phát triển. Góp ý với học sinh về những thiếu sót, việc làm cụ thể, với một thái độ chân thành và yêu thương. Tuyệt đối không nêu những nhận xét chung chung có tính chất quy chụp và xúc phạm HS.

Thứ bảy, luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người thầy với học trò. Theo quy luật phản hồi tâm lý, tình cảm của thầy trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của trò. Dùng lòng nhân ái, đức vị tha giáo dục, cảm hóa học trò sẽ luôn đạt hiệu quả cao. Trong mỗi tình huống sư phạm, người GV cần phải bình tĩnh xem lại bản thân mình. “Nhân vô thập toàn”, nên hãy “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Nếu nhận ra sự thiếu sót, sai lầm của mình, hãy dũng cảm thừa nhận. Chắc chắn làm như thế, học sinh chẳng những không coi thường thầy cô mà còn rất cảm phục.

Việc vận dụng các quy tắc cơ bản nói trên vào việc xử lý các tình huống sư phạm là nghệ thuật của mỗi nhà giáo.

Trên đây là một số kỹ năng sư phạm trong dạy học môn Giáo dục công dân mà bản thân tôi đã học hỏi và sử dụng trong quá trình làm việc. Mỗi GV để có những bài giảng hay những giờ học thực sự cuốn hút học trò cần không ngừng nỗ lực học hỏi các thế hệ đồng nghiệp về tất cả các kỹ năng. Hy vọng những chia sẻ của tôi trong bài viết này sẽ giúp các bạn SV chuyên ngành Giáo dục Chính trị có thêm những kinh nghiệm bổ ích để tự tin hơn khi đứng lớp và thành công trong sự nghiệp trồng người.