MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC KINH DOANH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN

 

PGS.TS Trần Thị Mai Phương

Th.s Nguyễn Thị Linh Huyền

Đặt vấn đề: Đất nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý, điều hành của nhà nước. Không thể phủ nhận những lợi ích mà nền kinh tế thị trường đem lại cho đất nước ta trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường đã dẫn đến những biến đổi trong đời sống xã hội. Hiện tượng vi phạm đạo đức trong kinh doanh xuất hiện ngày một nhiều với những mức độ khác nhau. Việc nghiên cứu lí luận đạo đức kinh doanh và giáo dục đạo đức kinh doanh cho các chủ thể trong nền kinh tế thị trường là vấn đề cấp thiết được nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học đề cập đến vấn đề đạo đức kinh doanh như vai trò và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh, thực trạng đạo đức kinh doanh và các giải pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Một trong những giải pháp quan trọng là thực hiện giáo dục đạo đức kinh doanh không chỉ cho các doang nghiệp, doanh nhân mà cần hướng tới giáo dục đạo đức kinh doanh cho HS các trường THPT - lực lượng lao động kế cận của đất nước. Chính vì vậy, việc tìm ra cách thức giáo dục đạo đức kinh doanh cho HS nhằm phát huy hiệu quả trong dạy học môn GDCD là cần thiết. Giáo dục đạo đức kinh doanh cho HS có thể thực hiện thông qua nhiều con đường khác nhau, nhưng dạy học là con đường cơ bản và phù hợp nhất.

1. Sự cần thiết của giáo dục đạo đức kinh doanh đối với học sinh trung học phổ thông

           Học sinh THPT là lực lượng lao động quan trọng chuẩn bị tham gia vào nền sản xuất xã hội cần được bồi dưỡng nhiều khía cạnh đạo đức trong đó có đạo đức kinh doanh thông qua các môn học khác nhau trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là môn Giáo dục công dân. Ở cấp THPT, GDCD là môn học hướng tới mục tiêu góp phần giáo dục toàn diện nhân cách học sinh trong đó có nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và pháp luật... đào tạo các em trở thành những người lao động mới, có phẩm chất tốt đẹp của người công dân Việt Nam. Trong tương lai, dù hoạt động ở ngành nghề nào, với trình độ như thế nào, các em đều cần phải tuân theo những giá trị, chuẩn mực đạo đức của xã hội, trong đó có đạo đức kinh doanh. Việc giáo dục đạo đức kinh doanh cho học sinh cần được lồng ghép trong nội dung dạy học Giáo dục công dân trong đó GV định hướng cho các em những chuẩn mực cơ bản của đạo đức kinh doanh như tính trung thực, tôn trọng con người, kinh doanh gắn với trách nhiệm xã hội, sự khiêm tốn và lòng dũng cảm, tôn trọng bí mật thương mại…Sự tuân thủ đạo đức kinh doanh không chỉ làm gia tăng lợi nhuận cho mỗi doanh nghiệp, mỗi cá nhân mà còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như hạn chế ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo quyền con người, bình đẳng giới…v.v.

         Thực tế dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT nước ta hiện nay  cho thấy vấn đề giáo dục đạo đức kinh doanh cho HS chưa thực sự được coi trọng thể hiện trên nhiều khía cạnh: 1) Chương trình môn học chưa có nội dung đề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức kinh doanh. 2) Mặc dù trong chương trình GDCD hiện hành với các mảng kiến thức về giáo dục đạo đức, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục pháp luật, giáo dục công dân về kinh tế... chứa đựng rất nhiều nội dung có thể lồng ghép giáo dục đạo đức kinh doanh cho HS nhưng phần lớn giáo viên bộ môn chưa nhận thức được tầm quan trọng và từ đó chưa quan tâm đến việc thiết kế lồng ghép nội dung giáo dục này trong quá trình dạy học. 3) Một số giáo viên đã bước đầu thực hiện lồng ghép giáo dục đạo đức kinh doanh trong bài giảng GDCD song vẫn còn rất nhiều lúng túng trong việc lựa chọn nội dung cũng như phương pháp tích hợp sao cho hiệu quả. Giáo dục đạo đức kinh doanh cho HS là đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Con đường giáo dục có hiệu quả là dạy học tốt môn GDCD trong đó có việc chủ động lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức kinh doanh. Nếu tổ chức việc dạy học này, bao quát cả việc lựa chọn những đơn vị kiến thức có liên quan để lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức kinh doanh cũng như sử dụng những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp kết hợp với đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá thì chất lượng dạy học môn GDCD sẽ được nâng cao đồng thời mục tiêu giáo dục đạo đức kinh doanh, hình thành nhân cách công dân cho HS THPT trong nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam sẽ được đáp ứng.

         

.

2. Đặc điểm môn GDCD có nhiều ưu thế trong giáo dục đạo đức kinh doanh cho học sinh trung học phổ thông      

           Việc giáo dục đạo đức kinh doanh phải gắn liền với việc giáo dục đạo đức, lối sống truyền thống của dân tộc. Đặc biệt cần chú trọng việc dạy và học trong các môn khoa học xã hội nói chung và môn GDCD nói riêng để từng bước hình thành cho các em ý thức tự giác, chuẩn bị cho một bản lĩnh chính trị đúng đắn, lòng trung thành với lý tưởng XHCN, có ý thức công dân trước pháp luật  và có trách nhiệm xã hội.

         Trong số các môn học và hoạt động giáo dục đang được giảng dạy ở trường THPT, GDCD được coi là môn học giữ vai trò quan trọng nhất trong việc giáo dục đạo đức cho HS. Chỉ thị số 30/1998/CT-BGD & ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 20 tháng 5 năm 1998 đã chỉ rõ: Môn GDCD ở trường THPT có vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của HSthông qua việc cung cấp hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức - nhân văn, đường lối chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và pháp luật, kế thừa các truyền thống đạo đức, bản sắc dân tộc Việt Nam; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và thời đại.

Chương trình môn GDCD THPT hiện nay được chính thức đưa vào giảng dạy từ năm học 2006-2007 theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 5 tháng 5 năm 2006. Theo đó, nội dung môn GDCD ở trường THPT được xây dựng dựa trên các môn khoa học cơ bản như: Triết học, Đạo đức học, Luật học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học và các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, chương trình còn tích hợp nhiều nội dung giáo dục xã hội cần thiết cho các công dân trẻ tuổi như: giáo dục quyền con người, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục môi trường, giáo dục giới tính - sức khỏe sinh sản vị thành niên, giáo dục an toàn giao thông,.... Xuất phát từ vị trí, mục tiêu môn học, nội dung chương trình môn GDCD ở THPT được cấu trúc thành năm phần, bao gồm: (1) Công dân với việc hình thành thế giới quan, PP luận khoa học; (2) Công dân với đạo đức; (3) Công dân với kinh tế; (4) Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội và (5)Công dân với pháp luật. Những nội dung này chứa đựng các giá trị đạo đức cơ bản như sống yêu thương ( tôn trọng và quan tâm đến người khác, nhân ái, khoan dung, yêu thương gia đình, yêu quê hương, yêu Tổ quốc, yêu đồng loại, yêu thiên nhiên...); sống tự chủ (trung thực, tự trọng, chăm chỉ vượt khó, tự hoàn thiện,...) và sống trách nhiệm (sống có trách nhiệm với bản thân, sống có trách nhiệm với gia đình, quê hương và Tổ quốc, tôn trọng và chấp hành pháp luật,...). Một con người sẽ không thể hoàn thiện nhân cách hay trở thành một người công dân tốt nếu thiếu hụt những giá trị nói trên.

Đặc biệt, trong nội dung chương trình Giáo dục công dân THPT có 3 phần chứa đựng nhiều nội dung có thể kết hợp giáo dục đạo đức kinh doanh, đó là: phần Công dân với đạo đức, Công dân với kinh tế và công dân với pháp luật.

 Phần Công dân với đạo đức có vai trò giáo dục, nuôi dưỡng và phát triển ở HS những giá trị đạo đức nhân văn cần thiết, giúp các em từng bước hoàn thiện nhân cách và trở thành con người có ích cho bản thân, gia đình, và xã hội.Hiểu biết sâu sắc các chuẩn mực, giá trị đạo đức sẽ soi sáng cho niềm tin đạo đức, khơi dậy và nuôi dưỡng trong HS tình cảm đạo đức mãnh liệt giúp cho các em có nghị lực để biến ý thức đạo đức trở thành những hành vi và thói quen đạo đức lành mạnh. Các giá trị, chuẩn mực đạo đức được giảng dạy trong môn GDCD ở trường THPT hiện nay có tính thực tiễn sâu sắc, gắn liền với thực tiễn sinh động của cuộc sống.

Phần Công dân với kinh tế là phần chứa đựng những nội dung kiến thức về kinh tế chính trị, cung cấp và trang bị những kiến thức cơ bản cho HS về sự hình thành, phát triển kinh tế hàng hóa, các khái niệm, quy luật kinh tế cơ bản trong nền kinh tế hàng hóa như: hàng hóa, tiền tệ, thị trường, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu..., chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, quá trình CNH, HĐH đất nước. Đây là những nội dung cung cấp những kiến thức cơ bản góp phần hình thành kiến thức, kỹ năng và đạo đức kinh doanh cho HS THPT.

Phần Công dân với pháp luật cung cấp những hiểu biết cơ bản về bản chất, vai trò và nội dung của pháp luật trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội như: thực hiện pháp luật, quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội, công dân với các quyền tự do cơ bản, pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước, pháp luật với hòa bình và sự phát triển của nhân loại...Những nội dung này giúp HS có thể chủ động, tự giác điều chỉnh hành vi cá nhân và đánh giá được hành vi của người khác theo quyền và nghĩa vụ của công dân trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây cũng là phần có chứa đựng một số nội dung có thể tích hợp giáo dục đạo đức kinh doanh cho HS như: bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, bình đẳng trong kinh doanh, quyền tự do kinh doanh của công dân và nghĩa vụ của công dân khi thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Đối với môn GDCD, “mục tiêu dạy người” luôn được xác định là quan trọng nhất”. Vì thế, môn GDCD luôn ở vị trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của HS. Mỗi HS là một chủ thể của phát triển nhân cách, phát triển xã hội. Do đó, thông qua mỗi bài dạy, tiết học người GV GDCD phải tích cực giáo dục, bồi dưỡng để giúp cho mỗi HS hình thành được cho mình lẽ sống, lí tưởng và niềm tin lành mạnh. Giáo dục để các em trở thành những công dân có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Trở thành những con người phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo đức và có đời sống tinh thần phong phú. Thông qua các bài học GDCD, người GV bộ môn phải giúp các em trở thành những con người sống có nghĩa tình, có tinh thần tập thể, có ý thức tổ chức kỉ luật, có lòng nhân ái khoan dung, biết yêu quê hương đất nước, yêu CNXH, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH, luôn  có ý thức trách nhiệm trước tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước, dân tộc... Để thực hiện nhiệm vụ này, người GV GDCD phải biến những tri thức, khô khan, trừu tượng, khó hiểu của môn học thành tình cảm, lẽ sống, lí tưởng, niềm tin ở HS, thôi thúc các em hành động theo lẽ phải và không ngừng nỗ lực phấn đấu để tự hoàn thiện bản thân, vươn tới chân – thiện –mĩ.

Đây cũng là một trong những điểm đặc thù và cũng là thế mạnh tạo nên ưu thế của môn GDCD trong việc giáo dục đạo đức kinh doanh cho HS THPT` ở trường phổ thông so với các môn học khác.

3. Nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo dục đạo đức kinh doanh trong dạy học môn GDCD ở trường THPT

Việc giáo dục đạo đức kinh doanh trong dạy học môn GDCD ở trường THPT được tiến hành hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó bao gồm các yếu tố chủ quan và khách quan. Yếu tố chủ quan thuộc về GV và HS, yếu tố khách quan là những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thực hiện.

Thứ nhất là về phía GV.

 Nhận thức của GV về sự cần thiết phải kết hợp giáo dục đạo đức kinh doanh cho HS trong quá trình dạy học GDCD là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức dạy học, quyết định việc lựa chọn nội dung tích hợp, lựa chọn phương pháp dạy học, kỹ thuật dạy học...

 Sự hiểu biết sâu rộng về tri thức môn học, các vấn đề liên quan đến cuộc sống và nghề nghiệp của GV được coi là nền tảng của việc tổ chức thực hiện . Từ những cơ sở nền tảng đó, GV sẽ thiết kế và xây dựng các chủ đề tích hợp GDĐ ĐKD phù hợp với nội dung bài học và thời lượng chương trình nhằm  hấp dẫn, lôi cuốn và kích thích sự nỗ lực học tập của HS. Việc GV biết lựa chọn nội dung tích hợp và sử dụng các PPDH và các kỹ thuật dạy học tích sẽ đáp ứng những yêu cầu sư phạm đặt ra, đảm bảo tính khoa học, có tác dụng to lớn trong việc tạo dựng thành công trong học tập cho người họclàm cho người học hứng thú, phát huy tính tích cực, chủ động của người học, đồng thời hướng tới phát triển các năng lực của HS.

Thứ hai là về phía HS

      HS THPT còn được gọi là tuôi thanh niên, thể hiện tính chất phức tạp nhiều mặt của các em về tâm lý và sinh lí. Chính vì vậy, các nhà tâm lý học Mác xít cho rằng: khi nghiên cứu tuổi thanh niên cần phải kết hợp quan điểm của tâm lý học xã hội và phải tính đến quy luật bên trong của sự phát triển lứa tuổi. Ở lứa tuổi này các hứng thú và khuynh hướng học tập của HS đã trở nên xác định và được thể hiện rõ ràng hơn.Các em thường bắt đầu có hứng thú ổn định đặc trưng đối với một khoa học,một lĩnh vực tri thức hay một hoạt động nào đó,kích thích nguyện vọng muốn mở rộng và đào sâu các tri thức trong lĩnh vực tương ứng. HS THPT được sinh ra trong một môi trường xã hội có nhiều thuận lợi,nhưng ở các em cũng có những ưu điểm và nhược điểm mà trong công tác giáo dục cần lưu ý: Ở một số HS tình cảm cách mạng và ý chí phấn đấu còn yếu, trình độ giác ngộ về xã hội còn thấp.

Trong điều kiện hiện nay, nhiều  HS chủ yếu thực hiện nhiệm vụ chính là học tập,  chưa trải qua thực tiễn lao động sản xuất, chiến đấu... cho nên, ở họ còn thiếu vốn sống, sự trải nghiệm cuộc đời như: bồng bột, chủ quan, dễ hoang mang, dao động khi gặp khó khăn, tiếp thu thông tin ít chọn lọc, hướng tới các giá trị mới hiện đại nhưng chóng quên quá khứ, truyền thống..  Nhìn chung đây là thời kì đặc biệt quan trọng đối với cuộc đời con người, là thời kì lứa tuổi phát triển một cách hài hòa, cân đối là thời kì có sự biến đổi lớn về chất trong toàn bộ nhân cách để các em bước vào cuộc sống tự lập. Do đó GV phải nhận thức đầy đủ vị trí của lứa tuổi này để có nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục thích hợp nhằm đem lại hiệu quả tối ưu trong hoạt động sư phạm. 

          Bên cạnh các yếu tố chủ quan, yếu tố khách quan cũng có sự ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả của việc GD ĐĐKD trong dạy học môn GDCD cho HS THPT. Các yếu tố khách quan bao gồm:

Một là, không gian dạy học

Không gian lớp học rộng rãi, thoáng mát, yên tĩnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc GV sử dụng các PPDH và KTDH tích cực nhằm giao tiếp, di chuyển hoạt động của các nhóm học tập. Không gian lớp học còn được xem xét ở góc độ tâm lý nghĩa là một lớp học có không khí tích cực, cởi mở, tin cậy và sẵn sàng hợp tác, một không gian đầy ắp tri thức và vốn sống của cả người dạy lẫn người học sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nhận thức, mỗi thành viên trong lớp sẽ hào hứng và xác định được vị trí, trách nhiệm của bản thân mình.

Hai là, các phương tiện, vật chất hiện đại cũng góp phần nâng cao hiệu quả GD ĐĐKD

Ngoài không gian rộng rãi, các phương tiện vật chất phục vụ cho dạy học nói chung cần đầy đủ để quá trình thực hiện GD ĐĐKD đạt hiệu quả.  Điều đó giúp HS có một môi trường tương tác thuận lợi trong hoạt động giáo dục. Để GD ĐĐKD phát huy hiệu quả, khi sử dụng các PPDH và KTDH cần phải có hệ thống máy chiếu, máy tính để trình chiếu, hình ảnh, phim tư liệu… Tài liệu môn học cùng với nguồn tài liệu tham khảo cũng là một yếu tố không thể thiếu để làm lên thành công của GD ĐĐKD.

Ba là, nội dung chủ đề tích hợp GD ĐĐKD  trong môn học GDCD.

Nếu GV lựa chọn chủ đề tích hợp nặng về lý thuyết, trừu tượng, có tính chất khiên cưỡng không phù hợp với đối tượng khiến HS có tâm lý ngại nghiên cứu. Nội dung chủ đề GD ĐĐKD có ý nghĩa thực tiễn, gắn với cuộc sống sẽ khiên người học tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, điều này tác động đến việc chủ động tìm tòi, nghiên cứu của HS. Thái độ của người học đối với môn học cũng dần được thay đổi. Từ đó HS sẽ hứng thú và tích cực hơn trong quá trình học tập.

4. Một số vấn đề đặt ra đối với việctích hợp giáo dục đạo đức kinh doanh trong dạy học môn GDCD ở các trường THPT hiện nay

Qua điều tra thực trạng GDĐĐKD trong môn GDCD ở trường THPT hiện nay cho thấy một số kết quả đạt được và hạn chế sau đây:

Những kết quả đạt được: Đa số GV và HS đều nhận thức đúng đắn về vai trò, sự cần thiết của nội dung tích hợp GDĐĐKD  trong môn GDCD ở THPT đối với quá trình rèn luyện, phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống của HS. Nhiều GV đã tích cực đổi mới PPDH như: chú trọng liên hệ thực tiễn, kết hợp nhiều phương pháp, kỹ thuật DH tích cực, chú trọng sử dụng các phương tiện DH hiện đại và áp dụng CNTT vào quá trình DH. Đa số GV đã thực hiện đầy đủ các bước trong QTDH; tích cực đổi mới hình thức, PP /KTDH; tích cực tìm tòi, sưu tầm, thiết kế các PTDH; đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá KQHT của HS;... Qua đó, giúp cho HS đạt được một số kết quả tích cực, được thể hiện qua nhận thức và hành động của các em. Việc chuyển hướng từ truyền thụ kiến thức sang rèn luyện kỹ năng bước đầu được coi trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời đối với việc đổi mới nội dung; PP, HTTC DH; cách thức kiểm tra, đánh giá KQHT của HS.

Hạn chế cần khắc phục: Bên cạnh những thành tựu đạt được, thì kết quả điều tra thực trạng cũng cho thấy nhiều hạn chế còn tồn tại trong GDĐĐKD ở THPT như: kiến thức lồng ghép trong môn GDCD mới chỉ thuần túy là sự kết hợp mà chưa phải là sự tích hợp kiến thức của các môn khoa học,  nhiều nội dung cần gắn bó nhiều hơn với đời sống thực tiễn, gắn liền với các hiện tượng đạo đức, lối sống, pháp luật để giúp HS có cơ sở, liên hệ, vận dụng vào bài học, qua đó từng bước hình thành thói quen và hành vi xử sự tích cực trong cuộc sống, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức và pháp luật của người công dân ngày nay. Đa số GV chưa xác định được nội dung và địa chỉ tích hợp GDĐĐKD cũng như các NL đặc thù cần hình thành, phát triển cho HS trong DH môn GDCD ở THPT, điều này dẫn đến những lúng túng trong quá trình lựa chọn hình thức, PP/KTDH và kiểm tra, đánh giá KQHTcủa HS;.... để nâng cao hiệu quả GDĐĐKD cho HS THPT. Nhiều HS chưa tìm thấy niềm vui, hứng thú và ý nghĩa trong các bài học GDCD. Tâm lý học đối phó cho qua vẫn còn phổ biến ở một bộ phận không nhỏ HS THPT.

            Nguyên nhân của thực trạng

Theo chúng tôi, việc GDĐĐKD nói riêng và GDĐĐ nói chung trong môn GDCD ở trường THPT hiện nay có thực trạng như trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, là do chương trình, SGK môn GDCD hiện hành chưa khắc phục được tính hàn lâm, nặng giáo dục chính trị, nhẹ giáo dục đạo đức và kỹ năng sống, coi trọng lý thuyết, coi nhẹ thực hành. Mục tiêu chương trình, nội dung SGK hiện hành còn thiên về dạy chữ, chư chú trọng đến việc dạy người, chưa chú trọng rèn luyện cho HS các phẩm chất và năng lực cần thiết của người công dân trong xã hội mới. Nhiều bài học kiến thúc khô khan, chưa gắn với đời sống tuổi trẻ. Nhiều nội dung là những vấn đề khó, chư sát với đối tượng HS THPT nên tạo ra áp lực cho cả người dạy và người học. Nói chung, nội dung GDCD hiện hành chưa cập nhật được những thay đổi của đất nước và thời đại trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN trong bối cảnh quốc tế hóa cũng như sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, chưa đáp ứng được việc đào tạo những công dân toàn cầu.

Thứ hai, việc đổi mới PPDH, KTĐG chưa thực sự chuyển biến, nhiều khi còn dừng ở hình thức. Nhiều GV đã trăn trở và tích cực đổi mới PP, nhưng do chương trình “quá tải”, nội dung kiến thức còn trừu tượng, khô khan, thiết bị, tài liệu, đồ dùng phục vụ dạy học còn thiếu nên GV chủ yếu vẫn dạy chay. PP chủ yếu được sử dụng phổ biến vẫn là PPDH truyền thống, ít gắn với thực tiễn cuộc sống, nặng về giáo dục tri thức mà chưa chú trọng giáo dục hành vi, đạo đức, kỹ năng sống. Khả năng sử dụng CNTT trong DH của nhiều GV còn hạn chế. Bên cạnh một số GV có ý thức đổi mới PPDH và sử dụng vào phương tiện DH tích cưc, nhiều GV còn thiếu phông kiến thức sâu rộng, chưa cập nhật những thông tin mang tính thời sự vào trong bài giảng nên mới dừng ở việc truyền thụ kiến thức trên lớp, lệ thuộc SGK, tài liệu hướng dẫn giảng dạy, thiếu sáng tạo trong tổ chức các hoạt động DH. Các phương tiện DH như: tranh ảnh, sơ đồ, bảng biểu, đồ dùng trực quan,...chưa được sử dụng nhiều. KTĐG kết quả còn nặng về hình thức, phương pháp và hình thức KTĐG chậm được đổi mới, phổ biến vẫn là kiểm tra kiến thức,chưa chú trọng KTĐG năng lực của HS qua việc giải quyết những vấn đề, tình huống cụ thể trong những bối cảnh nhất định, do đó chưa phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. QTDH vẫn chủ yếu nhắm đến NL nhận thức (biết, hiểu) mà chưa chú trọng hình thành, phát triển cho HS NL thực hiện.

Thứ ba, việc thiếu vắng những tài liệu, công trình nghiên cứu về tích hợp GDĐĐKD trong môn GDCD ở THPT hiện nay cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng nói trên. Khoảng trống trong lí luận DH bộ môn về chủ đề này đã dẫn đến những lúng túng nhất định trong quá trình triển khai DH môn GDCD (trong đó có GDĐĐKD) ở THPT hiện nay. Do thiếu cơ sở lí luận, nhiều GV bộ môn chưa thực sự hiểu đúng về sự cần thiết của GDĐĐKD, chưa hiểu rõ các nội dung và phương pháp để GDĐĐKD cho HS nên hiệu quả và chất lượng DH môn GDCD chưa cao, chưa đáp ứng được các yêu cầu thực tế.

         Thực trạng GDĐĐKD cho HS trong môn GDCD ở THPT hiện nay được nêu ra ở trên đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lí luận và thực tiễn đối với việc tích hợp GDĐĐKD, trong đó có nhiều vấn đề cấp thiết mà lí luận DH bộ môn cần phải tham gia giải quyết. Cụ thể là những vấn đề sau đây:

          -Tiếp tục phát triển những kết quả đã đạt được và khắc phục những khó khăn, hạn chế của quá trình đổi mới PPDH, tổ chức dạy học, KT, ĐG theo yêu cầu của Bộ GDĐT trong dạy học GDCD.

        - Cần phải xây dựng được khung lí luận về tích hợp GDĐĐKD trong môn GDCD ở trường THPT hiện nay. Khung lí luận này sẽ trang bị cho GV bộ môn cơ sở lí luận cũng như định hướng cho họ trong việc xác định, lựa chọn, sử dụng các biện pháp tích hợp GDĐĐKD trong môn GDCD ở trường THPT.

- Để nâng cao hiệu quả GDĐĐKD trong môn GDCD ở trường THPT hiện nay  GV bộ môn cần phải nắm vững và áp dụng các nguyên tắc GDĐĐKD trong môn GDCD ở trường THPT. Cần phải đổi mới nội dung cũng như đổi mới việc xác định nội dung GDĐĐKD trong môn GDCD ở trường THPT. Bên cạnh đó, việc đổi mới  tổ chức DH trên lớp, từ quy trình DH, HTTC DH, PPDH, cách sử dụng PTDH,...  trong môn GDCD ở trường THPT là quan trọng. Đổi mới việc đánh giá KQHT trong quá trình GDĐĐKD nói riêng và trong môn GDCD  nói chung ở trường THPT là yếu tố cần thiết.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Sách giáo khoa Giáo dục công dân lớp 10,11,12, NXB Giáo dục.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Sách giáo viên Giáo dục công dân lớp 10,11,12, NXB Giáo dục.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015),Tài liệu tập huấn dạy học tích hợp ở trường THCS, THPT, NXB Đại học Sư phạm.

4. Vũ Đình Bảy (Chủ biên) (2016), Thiết kế bài dạy học môn GDCD ở trường phổ thông, NXB Đại học Huế.

5. Nguyễn Văn Cư - Nguyễn Duy Nhiên (đồng chủ biên), (2009), Dạy và học môn GDCD ở trường THPT - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

 

 

 

ĐẢNG BỘ SƠN LA LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2010 – 2015

 

Th.s: Nguyễn Hải Minh

Tóm tắt: Thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu sớm đưa Sơn La trở thành tỉnh phát triển khá của vùng Tây Bắc. Trong giai đoạn 2010 - 2015, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Sơn La, cùng với truyền thống đoàn kết, sáng tạo và sự nỗ lực, cố gắng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Sơn La đã đạt được những thành tựu quan trọng và tương đối toàn diện trong phát triển kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, bộ mặt nông thôn miền núi có nhiều chuyển biến tích cực. Đó là điều kiện, tiền đề quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Sơn La tiếp tục ra sức phấn đấu xây dựng và phát triển quê hương Sơn La ngày một văn minh, giàu đẹp.   

Từ khóa: Đảng bộ, Sơn La, kinh tế, xã hội

1. Đặt vấn đề

Là một tỉnh miền núi phía Bắc, Sơn La có vị trí địa chiến lược quan trọng trong bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Đây là cửa ngõ quan trọng của vùng Tây Bắc Việt Nam, Sơn La có 250 km đường biên giới quốc gia, tiếp giáp với các tỉnh Bắc Lào (CHDCND Lào), là địa bàn cư trú của 12 dân tộc anh em cùng sinh sống. Do đó, nhiệm vụ xây dựng và phát triển Sơn La được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm sâu sắc. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là Đảng bộ Sơn La cùng với truyền thống đoàn kết, tinh thần lao động, sáng tạo của nhân dân các dân tộc nơi đây, Sơn La đã có những bước tiến dài trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa thật sự tương xứng với vị trí, tiềm năng của tỉnh. Vì vậy, nghiên cứu, tổng kết, đánh giá hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Sơn La đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong mỗi giai đoạn từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung về mặt chủ trương, đường lối là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.

2. Nội dung

2.1 Những chủ trương của Đảng bộ Sơn La

Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước được đưa ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986); thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với cả nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Sơn La đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt của đời sống từ kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội đến an ninh quốc phòng, đời sống vật chất của nhân dân ngày một được cải thiện, hệ thống cơ sở vật chất kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại, trình độ dân trí của nhân dân được nâng cao, sự nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân được đầu tư phát triển; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được tăng cường và giữ vững; diện mạo bức tranh nông thôn miền núi có nhiều khởi sắc, thế và lực của tỉnh không ngừng được nâng lên. Đó là những cơ sở, tiền đề quan trọng cho Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Sơn La vững bước tiến vào Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2010 – 2015) với những thời cơ và vận hội mới.

Trên cơ sở tổng kết, đánh giá những kết quả đạt được trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XII (nhiệm kỳ 2005 – 2010), căn cứ vào bối cảnh quốc tế, trong nước và tình hình thực tế của địa phương, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đã tiến hành nghiên cứu, thảo luận và đề ra mục tiêu tổng quát cho nhiệm kỳ 2010 – 2015 là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững manh, phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc trong công cuộc giảm nghèo nhanh và bền vững, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn, thử thách; duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đảm bảo quốc phòng, an ninh; mở rộng và tăng cường đối ngoại; phấn đấu sớm đưa Sơn La trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực miền núi phía Bắc” [6, tr.48-49].

Trong lĩnh vực kinh tế, với chủ trương “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm”, Đảng bộ Sơn La đã tích cực đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, gắn với giải quyết tốt vấn đề tam nông (nông nghiệp, nông thôn, nông dân) khu vực dân tộc miền núi; bảo vệ môi trường và sử dụng có hiệu quả bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực tăng tỷ trọng ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ chủ trương phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa cơ cấu giống cây trồng, con vật nuôi; tích cực ứng dụng và chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích đất canh tác; tập trung vào những cây trồng, vật nuôi là thế mạnh của vùng như trồng ngô, lúa, sắn, chè, cà phê, mía...chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn, gà...mạnh dạn đưa các giống cây trồng, con vật nuôi mới vào sản xuất. Trong sản xuất công nghiệp, Đảng bộ chủ trương đẩy mạnh phát triển theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm với hàm lượng khoa học cao trên cơ sở bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Phát triển các ngành, các sản phẩm công nghiệp có lợi thế của địa phương như: khai thác thủy điện, khoáng sản, tài nguyên nước; sản xuất vật liệu xây dựng; sản xuất, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, sản phẩm cây công nghiệp...Đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng, với 3 vùng kinh tế quan trọng gồm: vùng kinh tế dọc Quốc lộ 6, vùng kinh tế dọc sông Đà, vùng cao và vùng biên giới với mục tiêu hướng tới hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp – dịch vụ - nông, lâm nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhằm cụ thể hóa những chủ trương trên, Đảng bộ đã đề ra một số chỉ tiêu phấn đấu cho giai đoạn 2010-2015 như: “Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm đạt từ 14-15%; GDP bình quân đầu người đạt 1.200 USD (khoảng 23-24 triệu đồng); chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực với ngành công nghiệp xây dựng đạt 37-38%; dịch vụ 36-37%; nông lâm nghiệp 24-25%; thu ngân sách Nhà nước ước đạt trên 11.000 tỷ đồng; tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu ước đạt 15 triệu USD...”. [6, tr.49].

Cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhiệm vụ phát triển văn hóa – xã hội; an ninh, quốc phòng cũng được Đảng bộ hết sức quan tâm. Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ chủ trương tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và  nguồn nhân lực; ưu tiên đầu tư phát triển ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng tái định cư, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; phát triển và nâng cao hiệu quả của hoạt động khoa học công nghệ hướng vào phục vụ sản xuất và nhu cầu của nhân dân; nâng cao chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân; giữ gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong tỉnh, xóa bỏ những hủ tục lạc hậu trong nếp sống, nếp nghĩ của một bộ phận quần chúng nhân dân; xây dựng khu vực phòng thủ quốc gia vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đảm bảo an ninh biên giới, an ninh nội địa; phòng chống có hiệu quả âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch; thực hiện các chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, nhất là tội phạm về kinh tế, chức vụ, tham nhũng, tội phạm hình sự nguy hiểm, đẩy manh phong trào “toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm”. Đảng bộ đặt ra một số mục tiêu phấn đấu cụ thể như: “Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1%; tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 80%; 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã đi được trong 4 mùa; 100 đơn vị cấp xã, tổ bản, cơ quan, trường học cơ bản đạt và đạt tiêu chuẩn 4 không về ma túy, trong đó có 90% đạt tiêu chuẩn không có ma túy; phấn đấu có trên 55 xã đạt các tiêu chí nông thôn mới...” [6, tr.49].

2.2. Những kết quả đạt được và hạn chế

Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIII với những mục tiêu hết sức tổng quát và cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 -2015; trong hoàn cảnh quốc tế và trong nước tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cũng tồn tại không ít khó khăn, thách thức. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Cấp ủy Đảng, chính quyền và sự nỗ lực, quyết tâm cố gắng của nhân dân các dân tộc trong toàn tỉnh, Sơn La đã đạt được những kết quả nổi bật và tương đối toàn diện về kinh tế - xã hội.

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song nền kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế ngày một chuyển dịch theo hướng tích cực, một số chỉ tiêu cụ thể đã đạt và vượt so với Nghị quyết Đại hội đề ra; cụ thể là tổng sản phẩm GDP năm 2015 ước đạt 22.126 tỷ đồng, gấp 1,7 lần năm 2010, bình quân giai đoạn 2011-2015 tăng 10,39%; nếu năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo là 38% thì đến năm 2015 còn 22% (trung bình mỗi năm giảm 3,2%). Năm 2015 thu ngân sách ước đạt 3.300 tỷ đồng, gấp 3,5 lần năm 2010; GDP bình quân đầu người đạt 1.257 USD (khoảng 26.4 triệu đồng) vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ từ 32,88% (năm 2010) lên 46,25% (năm 2015); giảm tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp từ 37,84% (năm 2010) xuống 31,14% (năm 2015); công nghiệp xây dựng giảm từ 29,28% (năm 2010) xuống 22,61% (năm 2015). [7, tr.17-18].

Sản xuất nông, lâm nghiệp được coi là thế mạnh của tỉnh, được Đảng bộ hết sức quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Nhờ đó, sản xuất nông, lâm nghiệp tiếp tục phát triển khá và đạt được những kết quả tích cực như: Năm 2015, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp đạt 10.875 tỷ đồng, tăng 30,1% so với năm 2010, bình quân tăng 5,4%/năm; giá trị thu nhập trên 01 ha đất canh tác ước đạt 34 triệu đồng; việc ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất được tăng cường giúp nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường; cơ cấu cây trồng con vật nuôi ngày một đa dạng hóa và phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Tỉnh đã hình thành được một số mô hình sản xuất hiệu quả như: chăn nuôi bò sữa tại Mộc Châu với 17.500 con, sản lượng sữa tươi đạt trên 65.000 tấn, doanh thu đạt 2.200 tỷ đồng; khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại huyện Mộc Châu sản xuất các loại rau, hoa quả sạch, chất lượng cao đạt doanh thu 1 tỷ đồng/1ha đất canh tác; mô hình sản xuất mộc nhĩ và nấm xuất khẩu từ nõi ngô; nuôi cấy thành công sản phẩm Đông trùng hạ thảo; mô hình tưới nhỏ giọt kết hợp bón phân hòa tan  bằng công nghệ Israel tại 03 xã của 02 huyện và thành phố Sơn La, gắn với thương hiệu cà phê Arabica hữu cơ; mô hình nuôi cá tầm lòng hồ sông Đà... [7, tr.19].

Công nghiệp tiếp tục có bước phát triển trên cơ sở khai thác lợi thế, tiềm năng của tỉnh như khai thác vật liệu xây dựng, thủy điện, khai thác chế biến khoáng sản, nông lâm sản...nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới. Giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm liên tục tăng, năm 2015 đạt 5.764 tỷ đồng, tăng 68,4% so với năm 2010, bình quân tăng 10,9% năm; đã hình thành được một số cụm công nghiệp tập trung như thành phố Sơn La, huyện Mộc Châu, Mai Sơn, Phù Yên...Ngành thương mại, dịch vụ, du lịch có bước phát triển mạnh mẽ về cả quy mô và chất lượng; năm 2015, giá trị sản xuất của ngành ước đạt 16.280 tỷ đồng, tăng gấp 2,6 lần so với năm 2010, bình quân tăng 21,5%/năm; kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011-2015 đạt 43,3 triệu USD/năm; tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 51.546 tỷ đồng; du lịch đang trở thành ngành tiềm năng của tỉnh với các khu, điểm, tuyến du lịch trên địa bàn toàn tỉnh, đặc biệt là khu du lịch quốc gia Mộc Châu tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hứa hẹn sẽ là bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.[7, tr.19-20].        

Xây dựng nông thôn mới, được Đảng bộ xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm được Đảng bộ đầu tư quan tâm xây dựng theo hướng hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong giai đoạn 2010-2015, tỉnh đã đầu tư hơn 40 nghìn tỷ đồng đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng gồm đường giao thông, điện, nước sinh hoạt, trụ sở làm việc, nhà văn hóa xã, trường học, trạm y tế, mạng lưới các chợ...Đến hết năm 2015, toàn tỉnh có 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 08 xã đạt 10-14 tiêu chí, 78 xã đạt 5-9 tiêu chí, 99 xã đạt dưới 5 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới. Tỉnh đã hoàn thành công tác di dân tái định cư phục vụ nhu cầu xây dựng công trình Thủy điện Sơn La an toàn, đúng tiến độ với 12.584 hộ dân góp phần quan trọng vào việc hoàn thành công trình Thủy điện Sơn La trước thời hạn 3 năm so với kế hoạch đề ra [7, tr.19].. Hệ thống 03 vùng kinh tế cơ bản được định hình với những thế mạnh và lợi thế riêng; vùng kinh tế động lực dọc Quốc lộ 6 tiếp tục phát huy vai trò đầu tầu kinh tế của tỉnh với lợi thế về các ngành dịch vụ, du lịch, các cụm công nghiệp, vùng nguyên liệu chế biến nông sản, hàng hóa, rau quả tập trung; vùng kinh tế dọc sông Đà với thế mạnh dịch vụ vận tải đường sông, công nghiệp điện, khai khoáng, nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng cá tầm và các loại cá đặc sản đang mở ra triển vọng mới; vùng cao biên giới với thế mạnh về khai thác, bảo vệ tài nguyên rừng với phát triển các cây trồng, con vật nuôi đặc sản của địa phương.

Cùng với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa – xã hội cũng được Đảng bộ Sơn La hết sức coi trọng và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong ngành giáo dục đào tạo, Sơn La đã làm tốt công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, không ngừng nâng cao trình độ dân trí; bước đầu thực hiện có hiệu quả chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện ở các cấp học, bậc học, đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục; hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; tỷ lệ học sinh  đỗ tốt nghiệp hàng năm đạt trên 90%, nhiều học sinh đạt giải trong các kỳ thi quốc gia, quốc tế. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao những tiến bộ khoa học công nghệ có nhiều đổi mới, sáng tạo và gặt hái được nhiều thành công; trong đó có việc triển khai thực hiện thành công đề án hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chủ lực của tỉnh; tổ chức nghiên cứu, biên soạn, xuất bản hai công trình khoa học có ý nghĩa vô cùng quan trọng là “Địa chí Sơn La” và “Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái trong quá trình hội nhập”. Sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; Đảng bộ đã chỉ đạo ngành y tế hoàn thành tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo hiểm y tế...góp phần nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, đặc biệt là những gia đình chính sách, người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa. Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, Đảng bộ đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân trong toàn tỉnh tích cực giữ gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, xóa bỏ các hủ tục, lạc hậu cản trở sự phát triển như nạn tảo hôn, cướp vợ, bắt vợ, rượu chè, cờ bạc...Tổ chức tốt công tác thông tin tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng , pháp luật của Nhà nước, các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ lớn của đất nước và của tỉnh như tuyên truyền về biển đảo và tình hình đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hộiNhờ đó, trình độ dân trí và năng lực nhận thức của nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ngày một được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiên và từng bước nâng cao.

Công tác quốc phòng, an ninh được đảm bảo và tăng cường góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội. Công tác quân sự quốc phòng địa phương tiếp tục được tăng cường. Đảng bộ đã chỉ đạo Ban Chỉ huy quân sự xã tổ chức thực hiện tốt công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện Luật nghĩa vụ Quân sự, Luật Dân quân tự vệ; khám tuyển nghĩa vụ quân sự đạt kết quả tốt.Ban Chỉ huy quân sự xã thường xuyên tuyên truyền, phổ biến tới các tầng lớp nhân dân đề cao cảnh giác, nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm về công tác Quốc phòng trong tình hình mới. Cấp uỷ, chính quyền địa phương không ngừng tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng và tổ chức thực hiện tốt công tác quân sự địa phương, chính sách hậu phương quân đội, tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác, đảm bảo sẵn sàng chiến đấu khi có chiến sự xảy ra. Thực hiện có hiệu quả chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch lợi dụng các vấn nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng điểm, kiểm soát, giải quyết tốt các vấn đề nóng, bức xúc trong xã hội; chủ động phát hiện giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến an ninh trật tự, không để xảy ra tình trạng bị động, bất ngờ. Quan hệ hợp tác toàn diện giữa Sơn La với các tỉnh Bắc Lào không ngừng được tăng cường và mở rộng; đặc biệt là hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh tạo môi trường an toàn, thuận lợi cho xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào vùng biên.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Sơn La còn tồn tại những hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục:

Một là, nền kinh tế còn tương đối nghèo nàn và phát triển khá chậm so với các địa phương khác trong cả nước.

Mặc dù, nền kinh tế đã đạt được những kết quả quan trọng so với giai đoạn trước đó; song về cơ bản, Sơn La vẫn là tỉnh nghèo và chậm phát triển so với cả nước; tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Tiềm năng lợi thế về đất đai, khí hậu, nguồn nước, nguồn lao động chưa được phát huy và khai thác có hiệu quả.. Giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vẫn là sản xuất nông, lâm nghiệp nhỏ lẻ, phân tán theo phương pháp truyền thống và phụ thuộc vào thiên nhiên.Trong quá trình sản xuất chưa hình thành được các chuỗi sản xuất, vùng chuyên canh quy mô lớn. Chưa kết hợp giữa sản xuất, chế biến với tiêu thụ sản phẩm. Quy mô hết sức nhỏ lẻ. Việc đa dạng hóa cơ cấu giống cây trồng con vật nuôi, ứng dụng các thành tựu KHKT mới vào sản xuất còn hết sức chậm. Ruộng đất nhỏ lẻ, manh mún, phân tán gây khó khăn cho việc cơ giới hóa và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Do đó, năng suất và chất lượng nông sản thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường kém. Chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của kinh tế nghề và làng nghề, công nghệ sản xuất chậm đổi mới; tình trạng ô nhiễm ở một số làng nghề ngày càng bức xúc, ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống của nhân dân.

   Hai là, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng còn thiếu đồng bộ và hiện đại.

Thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Với tinh thần Nhà nước và nhân dân cùng làm, Đảng bộ Sơn La đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo, vượt qua khó khăn, thử thách, phát huy tối đa các nguồn lực xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm, các công trình văn hóa – xã hội…đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, làm cho bộ mặt khu vực nông thôn miền núi có sự thay da đổi thịt rõ rệt. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng; đặc biệt là hệ thống giao thông thiếu tính đồng bộ và hiện đại là lực cản rất lớn cho sự phát triển. Nhiều công trình xây dựng thiếu tính đồng bộ, chắp vá do không có sự nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng; không thường xuyên nâng cấp, sửa chữa, cải tạo và mở rộng các công trình hiện có; hệ thống giao thông nghèo nàn, lạc hậu với đường bộ và đường thủy, trong đó chủ đạo là đường bộ, không có các tuyến đường cao tốc, đường vành đai, đường hàng không. Do đó, năng lực vận chuyển hành khách và hàng hóa bị hạn chế, dẫn đến lãng phí về thời gian, chi phí, nhân lực, hiệu quả kinh tế thấp ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình trở thành lực cản không nhỏ cho sự phát triển của địa phương.

Ba là, chất lượng nguồn nhân lực còn thiếu và yếu, đặc biêt là nguồn lao động có tay nghề cao,

Hiện tại, lực lượng lao động chủ yếu tại địa phương vẫn là lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp theo lối sản xuất truyền thống, tự cấp tự túc và phụ thuộc vào tự nhiên; lực lượng lao động không qua đào tạo, thiếu những kiến thức, kỹ năng cơ bản chiếm tỷ lệ lớn. Mặt khác là tỉnh miền núi, còn gặp nhiều khó khăn, nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiếu số. Do đó, việc tiếp cận, ứng dung và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất còn hết sức hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa  nông nghiệp nông thôn.

Bốn là, những hạn chế trong các vấn đề xã hội

Mặc dù,đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã từng bước được cải thiện và nâng cao, song nhìn chung còn thấp, gặp nhiều khó khăn, khoảng cách, chênh lệch giàu nghèo ngày một lớn. Hiện tại, Sơn La là những địa phương có trình độ phát triển và trình độ dân trí thấp, tỷ lệ đói nghèo vẫn ở mức cao so với các địa phương khác trong cả nước; hệ thống giáo dục đào tạo, hệ thống y tế và dịch vụ chăm sóc sức khỏe còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đồng thời, đây cũng là địa bàn cư trú và sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số. Vì vậy, bên cạnh những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp còn bảo lưu nhiều hủ tục lạc hậu như nạn tảo hôn, cướp vợ, sinh con một bề “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” việc cưới, việc tang còn rườm rà, tốn kém; trong nếp sống, nếp nghĩ còn tồn tại tư tưởng trông chờ, ỷ nại, chậm đổi mới; trình độ nhận thức và năng lực tư duy của một bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế cùng với tình trạng nghèo đói dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút...Đây là những thách thức không nhỏ đặt ra đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Sơn La.

Năm là, những tồn tại, hạn chế trong hệ thống chính trị cơ sở

Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ đảng, chính quyền, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị ở một số cơ sở còn còn hạn chế. Biểu hiện ở tư tưởng chủ quan, duy ý chí, rập khuôn máy móc, cục bộ địa phương, mất đoàn kết nội bộ; năng lực, trình độ của một bộ phận đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở một số cơ quan, địa phương, đơn vị chưa đáp ứng được yêu cầu về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, một bộ phận ngại khó, né tránh, thiếu tinh thần trách nhiệm; đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Nội dung và phương pháp hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chậm được đổi mới, chưa thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội. Do đó, chưa phát huy được vai trò chỉ đạo, tập hợp quần chúng nhân dân trong việc triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết Đảng bộ các cấp vào cuộc sống.

2.3. Một số bài học kinh nghiệm

Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết, đánh giá những kết quả đạt được và nêu ra những hạn chế, tồn tại trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010-2015 của Đảng bộ Sơn La, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm vận dụng vào  thực tiễn nhằm tham mưu giúp lãnh đạo các cấp Ủy Đảng, chính quyền tỉnh Sơn La tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện phương hướng, nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Sơn La ngày một văn minh, giàu mạnh trong tương lai.

Một là, trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội phải thường xuyên căn cứ vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở sở đó vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tế của địa phương, tránh tình trạng chủ quan, duy ý chí, vận dụng một cách máy móc.

Hai là, phải thường xuyên quan tâm đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân miền núi; đặc biệt là ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Vì kinh tế nông, lâm nghiệp và người dân ở khu vực nông thôn miền núi là những nhân tố trực tiếp nhất quyết định đến sự thành bại trong những chủ trương của tỉnh.

Ba là, phải không ngừng đầu tư vào việc xây dựng, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông kết nối các địa phương trong tỉnh, giữa Sơn La với các tỉnh lân cận và các tỉnh Bắc Lào. Vì cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông nông thôn sẽ là yếu tố quyết định đến quá trình hội nhập và phát triển của tỉnh. 

Bốn là, phải thường xuyên quan tâm đến giải quyết các thách thức mang tính toàn cầu như đói nghèo, lạc hậu, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, môi trường, an ninh quốc phòng...Đặc biệt là Sơn La, một tỉnh miền núi, biên giới còn gặp nhiều khó khăn, giải quyết tốt những vấn đề này sẽ góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển, hướng tới nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đặc biệt là ở những vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

Năm là, không ngừng chăm lo, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số.

3. Kết luận

Như vậy, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Sơn La, phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo, cùng sự nỗ lực, cố gắng của đồng bào các dân tộc trong toàn tỉnh; trong giai đoạn 2010-2015, Sơn La đã đạt được những kết quả quan trọng và tương đối toàn diện trong phát triển kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và từng bước nâng cao; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, diện mạo nông thôn miền núi có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, về cơ bản Sơn La vẫn là tỉnh nghèo, có trình độ dân trí, trình độ phát triển tương đối thấp so với các địa phương khác trong cả nước; hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông nghèo nàn, lạc hậu; tiềm năng lợi thế về vị trí địa lý, khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển du lịch...chưa được phát huy và khai thác có hiệu quả. Đó là những vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Sơn La cần nhanh chóng giải quyết kịp thời, triệt để nhằm tiếp tục xây dựng và phát triển quê hương Sơn La ngày một phát triển hơn nữa trong tương lai.

TÀI LIỆU  THAM KHẢO

[1] Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội; công tác xóa đói, giảm nghèo; kết quả hợp tác và phát triển giữa tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào trong 5 năm (2011-2-15)

[2] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2010; phương hướng, nhiệm vụ 2011.

[3] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2011; phương hướng, nhiệm vụ 2012.

[4] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2014; phương hướng, nhiệm vụ 2015.

[5] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội năm 2015; phương hướng, nhiệm vụ 2016.

 [6] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2010 – 2015)

 

 [7] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2015 – 2020)

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THI TRẮC NGHIỆM TRONG KIỂM TRA KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHO SINH VIÊN KHÔNG CHUYÊN NGÀNH.

                                            Ths. Nguyễn Thị Thu Châu

   Khoa Lý luận Chính trị

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ ra một trong những hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo: “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”[1].

Có thể thấy rằng, phương pháp kiểm tra và đánh giá kết quả học tập là một trong những vấn đề quan trọng ảnh hưởng lớn đến chất lượng giảng dạy và học tập; kiểm tra và đánh giá là một hoạt động gắn bó hữu cơ, không thể tách rời với quá trình giảng dạy và học tập. Thông qua kiểm tra, đánh giá người thầy có thể thu thập được những thông tin cần thiết để điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Có thể nói kiểm tra, đánh giá là thước đo và là động lực để thúc đẩy quá trình đổi mới công tác giảng dạy và học tập, là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng đảm bảo chất lượng giáo dục và đào tạo.

Pháp luật là một trong những môn học quan trọng thuộc chương trình đại cương, việc đổi mới phương thức kiểm tra đánh giá nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Điều nàycó ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết và nhận  thức của sinh viên về pháp luật đáp ứng tốt chuẩn đầu ra của nhà trường và nhu cầu của xã hội.

1.Thực trạng của việc kiểm tra đánh giá

Như chúng ta đã biết môn Pháp luật đại cương là một môn đề cập đến các kiến thức chung nhất về Nhà nước và Pháp luật, nội dung môn nhiều nhưng thời lượng dạy thì ngắn. Ngoài những kiến thức cơ bản về Nhà nước thì sinh viên phải nắm hầu như toàn bộ các vấn đề cơ bản thuộc các luật khác nhau, nội dung, câu chữ của môn học khó hiểu, khó học. Mặc dù trong kiểm tra, đánh giá sinh viên trong quá trình học chúng ta cũng đã có các hình thức như thảo luận, làm bài tập nhóm...Tuy nhiên ở bài thi kết thúc học phần môn học thì kiểm tra còn thiên về học thuộc lòng, kiểm tra trí nhớ một cách máy móc, đơn điệu, vụn vặt, kiểm tra kiến thức thiên về tái hiện kiến thức, xem nhẹ kỹ năng, kết quả là sinh viên ít động não, phân tích suy luận vào một vấn đề mà không thấy được các vấn đề liên quan khác, nguyên nhân hoặc kết quả của nó. - Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên chưa có tác dụng mạnh mẽ kích thích, động viên sinh viên, ra đề khó thì sinh viên tâm lý chán nản, dễ quá thì sinh viên chủ quan …không đánh giái đúng trình độ sinh viên, Các hình thức kiểm tra chủ yếu là lý thuyết, tự luận là chính, các dạng đề kiểm tra, hình thức kiểm tra còn đơn điệu. Do vậy để đạt được các mục tiêu của môn học như

Giúp cho sinh viên có sự hiểu biết và nắm bắt một cách có hệ thống những vấn đề cơ bản về Nhà nước và Pháp luật và các ngành luật cụ thể.

Xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của mỗi cá nhân, cũng như vận dụng vào cuộc sống, tuyên truyền chủ trương đường lối,chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước là rất khó

Từ thực tế giảng dạy cho sinh viên không chuyên ngành ĐHGDCT vừa qua, đặc biệt là kỳ thi kết thúc học phần dành cho K57 vừa qua, nội dung đề thi đã được đổi mới kết hợp thi trắc nghiệm với tự luận thì kết quả cho thấy phần thi trắc nghiệm sinh viên làm tốt hơn. Vì vậy trong trong nội dung bài tham luận tôi  đề xuất áp dụng phương pháp thi trắc nghiệm kết hợp với các phương pháp khác trong quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn pháp luật đại cương cho sinh viên không chuyên ngành.

2. Mô tả Phương pháp thi trắc nghiệm

Phương pháp đánh giá bằng bài thi trắc nghiệm là phương pháp sử dụng bài trắc nghiệm làm công cụ để đánh giá kết quả học tập của học viên.

a. Phân loại:

- Căn cứ vào giáo dục, ta chia thành hai loại

+ TN năng lực: đo về năng lực của cá nhân ( TN trí tuệ, TN năng khiếu…)

+  TN kết quả học tập: đánh giá tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ của học viên.

- Căn cứ vào mục đích sử dụng kết quả TN:

+ TN đối chiếu: so sánh kết quả học tập giữa các học viên

+ TN theo tiêu chí: xác định khả năng hay kết quả học tập của học viên so với mục tiêu đề ra ban đầu.- Căn cứ vào nội dung môn học:

+ TN viết

+ TN phi ngôn ngữ

+ TN dùng lời

b. Các loại câu hỏi trắc nghiệm:

* Câu hỏi lựa chọn là loại câu hỏi, trong đó có phần gốc và phần trả lời. Phần gốc là một câu dẫn, tạo cơ sở cho sự lựa chọn. Phần trả lời là các phương án cho sẵn, trong đó có một phương án đúng nhất theo nội dung của phần dẫn, còn các phương án khác có tác dụng gây nhiễu. Trong một câu hỏi, tốt nhất là nên có từ 4 - 5 phương án lựa chọn.

VD: Văn bảo nào có hiệu lực cao nhất

a.      Luật

b.     Hiến pháp

c.      Nghị quyết

d.     Pháp lệnh

- Một số yêu cầu khi soạn thảo:

+ Phần gốc và phần lựa chọn phải trên cùng một nội dung đánh giá.
+ Các phương án trả lời phải tương tự nhau về độ khó, độ dài của câu.
+ Hạn chế những câu trả lời dạng : tất cả những ý đó, tất cả đều sai…(dễ làm học viên hiểu lầm xem đó là gợi ý )

+ Chỉ nên có một lựa chọn đúng

+ Vị trí các câu trả lời đúng cần được đảo ngược ngẫu nhiên. Câu hỏi đúng - sai

* Câu hỏi đúng - sai là loại câu khẳng định hoặc phủ định về một vấn đề nào đó. Học viên phải đọc, suy nghĩ và nhận định lời khẳng định hoặc phủ địnhđó là đúng hay sai.

Ví dụ: Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân là như nhau? Đúng hay sai, tại sao, cho ví dụ.

          Hành vi có ích cho xã hội là hành vi hợp pháp: Đúng hay sai, tại sao? cho vd  

- Câu hỏi đúng sai phù hợp để hỏi những sự kiện, thuật ngữ và các kiến thức có quan hệ nhân quả. Dễ khuyến khích người trả lời phỏng đoán, không phù hợp khi dùng đo các kiến thức có tính suy luận cao, vì vậy không nên dùng nhiều trong các bài trắc nghiệm. Nhưng đối với môn Pháp luật đại cương có thể dùng để hỏi vì nó dễ dàng cho chúng ta biết các em có hiểu bài hay không hay trắc nghiệm may mắn.

- Một số yêu cầu khi soạn thảo

+ Ngôn ngữ rõ ràng, ngắn gọn, súc tích.

+ Tránh dùng câu phủ định như “không”, “không phải” hoặc các từ “đôi khi”, “luôn luôn”, …vì chúng dễ gây hiểu lầm

+ Bố trí các câu đúng và câu sai có dụng ý, nhằm tránh sự trùng lặp các câu

đúng hoặc sai theo qui luật.

Ngoài ra có thể sử dụng câu hỏi ghép đôi

Câu ghép đôi là câu hỏi có hai phần: phần dẫn và phần trả lời. Phần dẫn thường ở bên trái, là các câu, các mệnh đề nêu thuật ngữ, nội dung, định nghĩa… Phần trả lời là phần bên phải, cũng bao gồm các câu, mệnh đề…mà nếu được ghép đúng vào mệnh đề dẫn ở bên trái sẽ trở thành một phương án đúng, một ý hoàn chỉnh. Nhiệm vụ của học viên là ghép mệnh đề có trong phần trả lời vào mệnh đề tương ứng ở phần dẫn. Yêu cầu của bài trắc nghiệm Có giá trị Có độ tin cậy về kết quả Độ khó của câu và bài trắc nghiệm Độ phân biệt

3.  Ưu điểm – hạn chế và bài học kinh nghiệm

Ưu điểm:

- Bài TN có thể đo được dải khá rộng các mức độ kết quả học tập của học viên theo mục tiêu: biết, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá.

- Tính khách quan cao.

- Tính bao quát về nội dung lẫn đối tượng cao

- Tiết kiệm thời gian (làm nhanh, dễ chấm, chấm nhanh…)

          Hạn chế:

 -Khó đánh giá chiều sâu trong nhận thức của học viên, đặc biệt là sức sáng tạo của học viên.

- Việc soạn thảo bài trắc nghiệm khó, đòi hỏi người soạn phải có kĩ thuật, kinh nghiệm.

- Việc soạn thảo hình thành bài TN tốn nhiều thời gian, qua nhiều công đoạn phức tạp, tốn kinh phí.

Bài học kinh nghiệm

- Không áp dụng phương pháp đối với tất cả các nội dung của học phần mà chỉ lựa chọn những nội dung thích hợp, bên cạnh đó tùy theo nội dung mà giảng viên áp dụng nhiều phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau trong cùng một thi (như trắc nghiệm, tự luận và bài tập) để đánh giá, phân loại sinh viên được chính xác hơn

- Giảng viên cần đầu tư thời gian đễây dựng ngân hàng câu hỏi cho hoàn thiện và hợp lý

 

 

 

 



MỘT SỐ KỸ NĂNG KHI THIẾT KẾ GIÁO ÁN

 

ThS. Nguyễn Thị Hương

Khoa Lý luận Chính trị

Giáo án là kế hoạch dạy học cho một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Nhiều nhà giáo dục nổi tiếng đã chứng minh thực tế là 60% chất lượng giờ dạy tốt là tùy thuộc vào khâu chuẩn bị soạn giáo án còn lại 40% là tùy thuộc vào năng lực sư phạm và kinh nghiệm của người thầy. Vì vậy là giáo viên muốn giảng dạy tốt và chất lượng thì phải nghiêm túc trong việc biên soạn giáo án. Theo tôi, đây là một kỹ năng quan trọng của giáo viên, là kỹ thuật trí tuệ đòi hỏi giáo viên phải có tư duy khoa học, khả năng ước lượng để lựa chọn kiến thức chuẩn xác, đủ về khối lượng để giáo án không bị cháy. Để HS có thể nắm được kiến thức, GV cần lựa chọn PPDH phù hợp với nội dung và đối tượng, phát huy được tính chủ động sáng tạo, của người học. Tuy nhiên, trong quá trình hướng dẫn sinh viên ngành sư phạm trường ĐH Tây Bắc thực hiện nhiệm vụ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm tại trường phổ thông tôi thấy các em còn nhiều lúng túng trong khâu thiết kế bài giảng hoặc các em chưa ý thức cao vai trò của việc soạn giáo án trước khi lên lớp dẫn đến bài soạn còn cẩu thả, sơ sài... Vì vậy thông qua bài viết này tôi muốn trao đổi với các bạn sinh viên sư phạm vai trò của giáo án và một số kỹ năng khi thiết kế bài giảng nhằm nâng cao chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên sư phạm trường ĐH Tây Bắc.
        Khi soạn giáo án, GV cần có những kỹ năng nhất định như: kỹ năng xác định mục tiêu, kỹ năng lựa chọn nội dung bài học, kỹ năng lựa chọn PPDH…
* Khi xác định mục tiêu, GV cần khẳng định được những kỹ năng người học cần đạt được sau bài học. Những kỹ năng đó cần phải phù hợp với trình độ của đối tượng học và phải được biểu đạt bằng những từ chỉ hành động cụ thể, ví dụ: trình bày, phân tích, giải thích, mô tả,…
 * Dẫn nhập để tạo tâm thế tích cực cho người học là một phần việc quan trọng. GV có thể giới thiệu một hình ảnh, kể câu chuyện, nêu một vấn đề cần giải quyết… Không nên lúc nào cũng rập khuôn bằng một câu chuyển giảng, nếu người học không cảm thấy hứng thú, giờ học sẽ không hiệu quả. Khi thể hiện phần dẫn nhập trong giáo án, GV chỉ cần nêu tên hoạt động, không cần thiết phải thể hiện chi tiết câu chuyện, vấn đề mình dự định sẽ nói. (Tuy nhiên đối với giáo sinh kiến thực tập các em nên thể hiện chi tiết câu chuyện, vấn đề mình cần nói để chủ động hơn, logic hơn, không bị lúng túng trên bục giảng)
* Lựa chọn nội dung bài học, GV cần tránh nhầm lẫn với nội dung chương trình. Chúng ta chỉ nên đưa vào giáo án những nội dung cần thiết, phù hợp đối tượng học, không nhất thiết phải lo lắng khi loại bỏ một số nội dung chương trình ra khỏi giáo án. Chỉ cung cấp những gì người học cần chứ không phải những gì chúng ta có. (Ngay cả trong phân phối chương trình cũng rất linh hoạt, cho phép GV lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp với đặc điểm vùng miền)
* Thiết kế hoạt động dạy học là một công việc cần sự đầu tư kỹ lưỡng của GV. Đây là phần trọng tâm, thể hiện toàn bộ kịch bản của giờ dạy. Những phương pháp nào cần phải vận dụng, những tình huống học tập nào cần đưa vào bài… Để thiết kế hoạt động dạy – học cho 1 giờ học thường gồm 5 bước:
+ Bước 1: Phân tích nội dung học tập
+ Bước 2: Phân tích kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm hiện có của người học
+ Bước 3: Xây dựng tình huống học tập
+ Bước 4: Thiết kế hoạt động của người học
+ Bước 5: Thiết kế hoạt động tổ chức và hướng dẫn
Khi thể hiện trong giáo án, người GV cần nêu rõ cách thức triển khai hoạt động cụ thể của giáo viên và học sinh, đồng thời nêu rõ mục tiêu của các hoạt động đó, tránh việc chỉ nêu tên phương pháp (Giáo án mới được áp dụng yêu cầu ghi rõ hoạt động dạy học chứ không phải là nêu tên PP như mẫu cũ trước kia).

Trong quá trình thực hiện các hoạt động dạy học, GV cần sử dụng nhiều PP khác nhau để tránh gây nhàm chán cho người học, đồng thời phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm của từng PPDH. Và dù sử dụng PPDH nào thì cũng không nên kéo dài quá 20 phút với mỗi PP.
* Lựa chọn phương tiện dạy học, GV cần xem xét đến các yếu tố cơ bản sau:
+ Mục đích sư phạm cụ thể
+ Đặc điểm môn học
+ Mục tiêu học tập chung
+ Đặc điểm đối tượng
+ Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc dạy học và điều kiện cơ sở vật chất thực tế của nhà trường.
Thiết kế giáo án là một công việc thường xuyên của GV trước khi lên lớp. Một khi giáo án được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu thì sẽ giúp cho GV có được sự tự tin, từ đó quyết định rất lớn đến sự thành công của GV trong giờ giảng.

         Trên đây là một số kỹ năng khi thiết kế giáo án mà bản thân tôi đã học hỏi và sử dụng trong quá trình làm việc. Mỗi GV để có những bài giảng hay, những giờ học thực sự cuốn hút học trò cần không ngừng nỗ lực học hỏi các thế hệ đồng nghiệp về tất cả các kỹ năng như nghiên cứu tài liệu, thuyết trình, sử dụng phương tiện dạy học, xử lý tình huống sư phạm, thiết kế giáo án và trình bày bảng…. Hy vọng những chia sẻ của tôi trong bài viết này sẽ giúp các bạn sinh viên sư phạm có thêm những kinh nghiệm bổ ích để tự tin hơn khi đứng lớp và thành công trong sự nghiệp trồng người.

 

 

 

CƠ CHẾ VẬN HÀNH CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

 

                                                                       Ths. Cao Thị Hạnh

                                                             Bộ môn ĐLCM của ĐCSV và TTHCM

Đại hội VI của Đảng (1986) thừa nhận những hạn chế, bất cập trong cơ chế vận hành của hệ thống chính trị; Đại hội VI xác định: trong đổi mới hệ thống chính trị thì vấn đề hệ trọng và khó khăn nhất là đổi mới mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Đảng lãnh đạo theo cơ chế nào để thể hiện đúng chức năng lãnh đạo của mình, khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay những công việc của Nhà nước. Tuy nhiên, khắc phục một thói quen, thậm chí một tập quán lãnh đạo Nhà nước theo lối chỉ huy toàn diện và trực tiếp trong thời kỳ lịch sử dài là điều không dễ dàng. Thay thế phương thức lãnh đạo cũ là cần thiết, nhưng lãnh đạo theo phương thức mới thế nào là vấn đề không đơn giản. Nhưng với bản lĩnh chính trị vững vàng, xuất phát từ thực tiễn đổi mới kinh tế, tư duy mới của Đảng ta về cơ chế vận hành của hệ thống chính trị được hình thành.

Hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”[1]; trong đó, Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có chức năng thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội, làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan đại diện, đồng thời làm chủ trực tiếp thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”[2]; làm chủ thông qua hình thức tự quản.

Như vậy, so với thời kỳ trước đổi mới nhận thức mới về cơ chế vận hành của hệ thống chính trị ở nước ta có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.

Một là, phân định ngày càng rõ hơn chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước. Đại hội VII của Đảng (1991) đã xác định vấn đề mấu chốt hiện nay là phân định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1991) và các Đại hội VIII, IX, X, XI, Đảng ta khẳng định: Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của Đảng viên… Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

          Đảng ta ngày càng nhận thức rõ, lãnh đạo có nghĩa là hướng dẫn, dẫn dắt người khác làm theo bằng nhiều phương thức - bằng uy tín, vận động, thuyết phục, làm gương… nhằm đạt đến những mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, phân biệt chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước, trong điều kiện một Đảng cầm quyền chỉ là tương đối. Lãnh đạo và quản lý có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong lãnh đạo cũng có yếu tố của quản lý (chỉ đạo tổ chức thực hiện), và trong quản lý của Nhà nước cũng có yếu tố lãnh đạo (đề ra chủ trương, chính sách mang tính pháp lý). Lãnh đạo và quản lý đều là sự tác động vào khách thể nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định.

Hai là, vị trí và vai trò, chức năng của Nhà nước trong hệ thống chính trị ngày càng được xác định rõ ràng hơn. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nhận thức của Đảng về Nhà nước pháp quyền còn rất mới mẻ, các vấn đề lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền là quá trình nghiên cứu ở phía trước, nhưng tinh thần pháp luật, vị trí và vai trò của pháp luật thì đã được ý thức. Thuật ngữ “xây dựng Nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Trung ương 2 khoá VII (1991) thay thế cho thuật ngữ “Nhà nước chuyên chính vô sản” đánh dấu bước đột phá trong quá trình đổi mới tư duy về hệ thống chính trị. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) và các Đại hội VIII, IX, X, XI, Đảng xác định tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật.

Lần đầu tiên trong suốt mấy thập kỷ lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước, đến Đại hội VIII (1996), Đảng ta mới chính thức xác định Nhà nước ta là trụ cột của hệ thống chính trị.Vớiquan điểm mới này, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chủ yếu nhất, khó khăn phức tạp và lâu dài nhất trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới và hoàn thiện Nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là nhiệm vụ trung tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị.

Nhà nước ngày càng thể hiện tốt hơn vai trò là cơ quan quyền lực công của xã hội. Tính độc lập trong vai trò quản lý của Nhà nước đối với xã hội ngày càng thể hiện rõ hơn. Đặc biệt là đối với chính quyền địa phương và chính quyền cơ sở. Nhà nước ngày càng tập trung hơn vào việc xây dựng môi trường chính trị - pháp lý ổn định và thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp thông qua các hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật và chính sách; ngược lại nhân dân ngay càng có điều kiện tham gia thực chất và có hiệu quả vào công việc Nhà nước, tham gia quản lý Nhà nước.

Ba là, nhận thức mới vai trò các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam

Khi chưa giành được chính quyền, Mặt trận là liên minh chính trị của công nông với các lực lượng dân tộc tiến bộ, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, vận động, đoàn kết nhân dân đấu tranh chống đế quốc và phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân. Khi giành được chính quyền, Mặt trận cùng với Đảng và Nhà nước là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

          Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò làm chiếc cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh ý chí nguyện vọng của nhân dân với Đảng và Nhà nước; thay mặt các tầng lớp nhân dân kiến nghị với Đảng và Nhà nước về những vấn đề cần thiết bổ sung vào đường lối, chính sách. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn thực hiện giám sát, tư vấn, phản biện xã hội đối với các cơ quan và cán bộ của Nhà nước và hệ thống chính trị, tham gia xây dựng, giám sát, góp ý kiến vào các dự án luật thuộc các lĩnh vực kinh tế, dân sự, hình sự và tổ chức bộ máy Nhà nước. Việc thực hiện chức năng này nhằm tạo ra cơ chế giám sát quyền lực trong xã hội, đảm bảo thực hiện yêu cầu dân chủ hóa.

          Điểm đổi mới quan trọng, nổi bật trong mối quan hệ giữa Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là: Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc có vị trí ngang nhau trong hệ thống chính trị và có nguyên tắc cùng phối hợp hành động.

Như vậy, sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, mối quan hệ giữa các thành tố của hệ thống chính trị nước ta được xác định rõ hơn, giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản này sẽ góp phần làm cho hệ thống chính trị nước ta vận hành có hiệu lực, hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[3].

Tài liệu tham khảo:

1 - Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.109.

2 - Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991 - 2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.127.

3 - Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 70.