CHÙA MỘT CỘT- DI SẢN VĂN HÓA VIỆT NAM

 

                                                                   Th.S Lại Trang Huyền

 

1.     Chùa - Kiến trúc đặc trưng của đạo Phật

 

Chùa là một công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng. Chùa được xây dựng phổ biến ở các nước Đông Á và Đông Nam Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và thường là nơi thờ Phật.Tại nhiều nơi chùa có nhiều điểm giống chùa tháp ở Ấn Độ,vốn là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư, thường có nhiều tháp bao quanh. Chùa là nơi tiêu biểu cho chân như, được nhân cách hoá bằng hình tượng một đức Phật được thờ ngay giữa chùa, nhiều tầng đại diện cho ba thế giới (tam giới), các cấp bậc tiêu biểu cho thập địa bồ tát. Có nhiều chùa được xây 8 mặt đại diện cho Pháp luân hặc Bát chính đạo.

Chùa còn là nơi tập trung của các sư tăng (hay ni, nếu là chùa của nữ giới tu hành), sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật.Tại nơi này, mọi người kể cả tín đồ hay người không thao đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ tôn giáo.

Ở Việt Nam, Phật giáo phát triển mạnh từ thế kỉ VI-X và rất thịnh đạt dưới thơì Lý. Vua Lý Công Uẩn là người sáng lập ra triều Lý, khi còn nhỏ sống trong chùa “nhân dân quá nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa”. Phẩm cấp cho các tăng quan đứng đầu là chức quốc sư, các tăng quan cao cấp thường được vua và hoàng hậu dùng làn cố vấn. Tuy nhiên hình dáng đầu tên của ngôi chùa trông như thế nào vẫn là một câu hỏi. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, ngôi chùa đầu tiên là những lều cỏ làm bằng tranh, tre, nứa và lợp bằng lá, cỏ gọi là thảo am, tuy nhiên điều này vẫn chưa được khẳng định.

Thời nhà Lý, Phật giáo được coi là quốc giáo. Các vua nhà Lý bỏ tiền ra xây dựng chùa. Ngoài ra làng xã nhân dân cũng tự bỏ tiền ra xây chùa nhưng cho đến nay thì kiến trúc chùa không còn nữa. Tuy nhiên dựa vào bi kí và những vết tích còn lại có thể thấy phần nào về quy mô và đặc điểm của một số kiến trúc chùa thời Lý như: chùa được xây dựng trên mọI loại địa hình (sườn núi cao, ven sông, ven biển, đồng bằng…); mặt bằng kiến trúc chùa có bình đồ hình vuông và gần vuông và là các đơn nguyên kiến trúc đăng đối trên một trục dài. Chùa thời Lý gồm một quần thể kiến trúc bao quanh một kiến trúc ở giữa như chùa Đọi ở Hà Nam, chính giữa là tháp Sùng  Thiện Diên Linh cao 13 tầng, hai bên tả hữu là chùa chính phía trước là đài Quan âm. Chùa Một Cột là điển hình của lối kiến trúc này.

2. Chùa Một Cột - Lối kiến trúc có một không hai của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo.

Tên thường gọi là chùa Một Cột, nằm trong quần thể chùa Diên Hựu (kéo dài tuổi thọ). Chùa nằm trên đất thôn Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, phía Tây hoàng thành Thǎng Long thời Lý, nay thuộc phố chùa Một Cột, quận Ba Đình - Hà Nội, ở bên phải Lǎng Chủ Tịch Hồ Chí Minh.

Theo Đại Việt ký sự toàn thư, chùa được xây dựng vào nǎm Kỷ Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo 1 (1049) đời Lý Thái Tông. Vua Lý Thái Tông (1028-1054) chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên toà sen đưa tay dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua kể lại cho các quan nghe, có người cho là điềm không lành. Sư Thiên Tuế khuyên nhà vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm toà sen của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng. Chùa xây xong, đài sen nghìn cánh đỡ toà Phật sắc hồng, trong đặt tượng Phật vàng lấp lánh. Các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh chùa niệm Phật cầu phúc cho vua sống lâu, vì thế đặt tên là chùa Diên Hựu.

Theo vǎn bia dựng nǎm Cảnh Trị 3 do hoà thượng Lê Tất Đạt ghi, chùa được dựng từ thời thuộc Đường: "Nǎm đầu niên hiệu Hàm Thông thời Đường..., dựng một cột đá ở giữa hồ, trên cột xây một toà lầu ngọc trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ cúng. Khí đất chung đúc anh linh, cầu gì được nấy. Đến khi triều Lý xây dựng kinh đô ở đây, cũng noi theo dấu cũ, nên càng linh thiêng. Khi Lý Thánh Tông chưa có Hoàng tử, thường đến đó cầu nguyện. Một đêm nằm mộng thấy Phật Quan Âm mời lên lầu ngồi, ôm một đứa bé đặt vào lòng vua. Tháng đó Hoàng hậu có mang hoàng tử. Vua bèn sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa Một Cột để mở rộng việc thờ cúng..."

Đời Lý Nhân Tông, nǎm Anh Vũ Chiêu Thánh 5 (1080) vua cho đúc chuông lớn để treo ở chùa gọi là "Giác Thế chung" (chuông thức tỉnh người đời) và một toà phương đình bằng đá xanh cao 8 trượng, nhưng vì chuông quá nặng không sao treo lên được, phải để dưới đất nên đánh không kêu. Chỗ ruộng để chuông thấp, có nhiều rùa đến ở, được gọi là ruộng Quy Điền và quả chuông cũng được gọi là chuông Quy Điền.

Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa lại chùa, dựng lên một cây tháp bằng đá trắng trước chùa Diên Hựu gọi là tháp Bạch Tuynh. Tháp cao 13 trượng. Từ tháp vào chùa Một Cột đi bằng một hành lang cầu vồng. Mỗi tháng hai ngày Rằm, mồng Một, nhà vua cùng các hậu, phi, cung tần và cận thần tới chùa lễ phật. Đặc biệt cứ đến ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm là ngày Phật sinh, nhà vua lại ngự ra chùa trước một đêm, giữ mình chay tịnh để làm lễ tắm phật ngày hôm sau. Ngày này rất đông các tăng ni phật tử và nhân dân các nơi tới dự, làm nên ngày hội lớn ở kinh đô. Trong ngày này, tại chùa có lễ phóng sinh. Lễ phóng sinh bắt đầu ngay sau lễ tắm phật, nhà vua đứng trên đài cao, tay cầm một con chim thả cho bay đi, sau đó đến các tăng ni và các thiện nam tín nữ đua nhau mỗi người thả một con, bóng chim bay rợp trời.

Quy mô chùa Một Cột vào thế kỷ XII to lớn lộng lẫy hơn như hiện nay rất nhiều. Vǎn bia Tháp sùng Thiện Diên Linh chùa Long Đọi (Nam Hà) dựng nǎm 1121, mười sáu nǎm sau khi chùa mới hoàn thành, cung cấp cho ta hình ảnh chân thực nhất về một ngôi chùa Một Cột thời Lý: "Lòng sùng kính đức Phật, dốc lòng mộ đạo nhân quả, hướng về vườn Tây Cấm nổi danh, xây ngôi chùa Diên Hựu. Theo dấu vết chùa cũ cùng với ý mới của nhà vua ( Lý Nhân Tông). Bia tháp Sùng Thiên Diện Linh (1105) ghi rằng: "…Đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột có một đoá hoa sen nghìn cánh xoè ra, trên hoa dựng một ngôi đền màu đỏ sẫm đứng vững toà điện màu xanh, trong đền đặt pho tượng sắc vàng”, vòng quanh hồ là hai dãy hành lang; lại đào ao Bích Trì mỗi bên đều mắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu hai đằng trước hai bên tả hữu, xây bảo tháp Lưu Ly.

"Hằng tháng vào sớm ngày mồng một (ngày sóc), hàng nǎm vào dịp du xuân, nhà vua ngồi xe ngọc, đến chùa mở tiệc chay, làm lễ dâng hương hoa, cầu cho ngôi báu lâu dài, bày chậu thau làm lễ tắm tượng Phật. Trang sức pho tượng tinh tế, biểu đồ tướng mạo của nǎm loại chúng sinh..."

Qua vǎn bia miêu tả, rõ ràng Liên Hoa Đài thời Lý to hơn chùa ngày nay nhiều. Chùa thời Trần cũng không phải là ngôi chùa thời Lý nữa. Như sách Toàn thư đã ghi lại, nǎm 1249 "mùa xuân, tháng giêng, sửa lại chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ". Chùa đã qua nhiều đợt tu sửa. Đợt sửa chữa lớn vào nǎm Thiên ứng Chính Bình 18 (1249) gần như phải làm lại toàn bộ. Thời Lê, triều đình nhiều lần cho tu sửa, thu nhỏ kích thước đài sen và cột đá. Nǎm 1838, tổng đốc Hà Ninh Đặng Vǎn Hoà tổ chức quyên góp thập phương sửa chữa điện đường, hành lang tả hữu, gác chuông và cửa tam quan. Nǎm 1852, bố chính Tôn Thất Giao xin đúc chuông mới. Nǎm 1864, tổng đốc Tôn Thất Hàm hưng công trùng tu, làm sàn gỗ hình bát giác để đỡ toà sen, chạm trổ thêm công phu tráng lệ. Năm 1922 trường Viễn Đông Bác Cổ đã cho sửa lại chùa theo kiến trúc cũ. Nǎm 1954, trước khi rút khỏi Hà Nội, quân Pháp đã đặt mìn phá đổ chùa. Sau ngày tiếp quản thủ đô, Bộ Vǎn Hoá đã cho tu sửa chùa Một Cột theo đúng kiểu mẫu cũ để lại từ thời Nguyễn, hoàn thành việc tu sửa vào tháng 4 – 1955.

Toà đài sen (Liên Hoa Đài), ta quen gọi là chùa Một Cột có hình vuông mỗi chiều 3m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất) có đường kính là 1,2m. Trụ đá gồm 2 khối, gắn rất khéo, thoạt nhìn như một khối đá liền. Sự độc đáo của kiến trúc chùa Một Cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá. ở đây có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng hoa sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ bằng hệ thống móng giằng; đặc biệt là sử dụng các cột chống chéo lớn từ cột đến sàn, vừa tạo thế vững chắc, vừa mang lại hiệu quả thẩm mỹ như đường lượn của cánh sen, thiếp lập sự hài hoà giữa mái và sàn bởi một đối xứng ảo. Chỉ là một cái lầu gỗ vuông, mỗi cạnh 4 mét, lợp 4 mái cong, trên có lưỡng long triều nguyệt, đặt trên tám con sơn bằng gổ trên đầu một cái cột đá, chùa Một Cột có hình khối kiến trúc rất khiêm tốn nhưng độc đáo. Nhiều người cho rằng đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam Trong khi chế độ phong kiến với những lễ giáo, tôn giáo đã đặt ra những quy định về kiến trúc thì kiến trúc của chùa Một Cột là có một không hai. Bên cạnh đó cấu trúc của chùa Một Cột đã vượt ra ngoài công thức cổ điển của sự cấu tạo vì kèo Việt Nam. Cùng với ao hình vuông phía dưới có thể là biểu tượng cho đất trời (trời tròn, đất vuông), ngôi chùa như vươn lên cái ý niệm cao cả: Lòng nhân ái soi tỏ thế gian. Khối kiến trúc gỗ đá được phù trợ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh lịch. Kiến trúc ở đây đã dùng ngôn ngữ hình tượng của nghệ thuật điêu khắc và trở nên gần gũi với con người Việt Nam.

Chùa Một Cột được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật ngày 28-4-1962. Tính đến nay, chùa có tuổi đời 968 năm.

 

 

 

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở TỈNH SƠN LA ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

 

ThS. Lèo Thị Thơ

                                                                            

                                                         

          Tóm tắt

Bài viết trình bày khái quát vai trò của nguồn nhân lực (NNL) đối với sự phát kinh tế - xã hội (KT-XH). Trên cơ sở phân tích thực trạng NNL của tỉnh Sơn La hiện nay, tác giả đề xuất một số giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH. Cụ thể: 1/ Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; 2/ Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống cho người dân; 3/ Đẩy mạnh phát triển văn hoá, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá các dân tộc.

Từ khoá: Nguồn nhân lực; tỉnh Sơn La; kinh tế - xã hội.

          1. Vai trò củaNNL đối với sự phát triển KT-XH

Một quốc gia muốn phát triển cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người,… Trong các nguồn lực đó nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay.

 NNL là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.

Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, NNL, đặc biệt là NNL chất lượng cao (NNLCLC), tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực” ngày càng đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển KT-XH, đó là:

1.1. NNL là điều kiện nền tảng, bắt buộc và không thể thiếu của các hoạt động KT-XH

Kinh tế gia nổi tiếng William Petty đã từng khẳng định, lao động
là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải, vật chất; C.Mác cho rằng, con người là
yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Trong truyền thống xã hội Việt Nam
cũng khẳng định “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Nhà tương lai Mỹ
Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức, theo ông ta “Tiền bạc
tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên” [1].

Trong bối cảnh khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, con người - NNLCLC với tư cách  là chủ thể sáng tạo, nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển KT-XH.

1.2. NNL là động lực của các hoạt động KT-XH

Khi đề cập đến vai trò của nguồn lực con người là một trong những
động lực quan trọng nhất của hoạt động KT-XH là chủ yếu nói đến
sức mạnh thể chất và khả năng lao động sáng tạo của con người. Đây là nguồn tiềm năng vô tận của con người. Bởi vì, khi chúng ta càng sử dụng nó càng phát triển và phong phú hơn. Để thúc đẩy kinh tế phát triển cần phải chú trọng hơn nữa nguồn lực con người, coi nó như nguồn lực nội sinh, là động lực thúc đẩy KT-XH phát triển, đáp ứng yêu cầu của đất nước. Con người với tất cả năng lực và phẩm chất tích cực của mình bao gồm: Trí tuệ, kinh nghiệm, kỹ năng, tính năng động sáng tạo, niềm tin và ý chí... thì tự mình có thể trở thành động lực của sự phát triển xã hội nói chung.

1.3. NNL là mục tiêu của các hoạt động KT-XH

Nguồn lực con người với tư cách là mục đích của sản xuất, đồng thời là
động lực của sản xuất có nhu cầu không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong mọi phương thức sản xuất xã hội, vấn đề sản xuất cái gì? sản xuất như
thế nào? và sản xuất cho ai? - suy cho cùng đều phục vụ nhu cầu của con
người. Vì vậy, nhu cầu của con người trở thành tác nhân vô cùng quan trọng
kích thích sản xuất. Đây chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền sản xuất
phát triển

1.4. NNLCLC là điều kiện để hội nhập quốc tế, rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lượng NNL làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

          2. Đánh giá tình hình NNL tỉnh Sơn La hiện nay

Sơn La là tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc, được xác định là trung tâm và động lực phát triển kinh tế của cả vùng, có vị trí chiến lược quan trọng về KT-XH, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của cả nước. Hiện nay, toàn tỉnh có gần 1,2 triệu người. Lực lượng lao động có gần 734,74 nghìn người. Trong đó, có 60 vạn lao động nông dân, doanh nghiệp có hơn 1.000  với gần 5 vạn công nhân, các hộ kinh doanh công thương nghiệp có gần 2 vạn lao động. HS phổ thông có trên 21 vạn, SV hơn 1 vạn/năm; Lao động nữ 371,02 nghìn người, nam là 363,72 nghìn người; Lao động thành thị 94,63 nghìn người, nông thôn 640,11 nghìn người; Đội ngũ trí thức (tính từ trình độ cao đẳng chuyên nghiệp trở lên) có  3,5 vạn người. Trí thức trình độ cao (thạc sỹ trở lên ) có 1.000 người, hơn 100 bác sỹ chuyên khoa I, 25 bác sỹ chuyên khoa II, trên 60 chuyên viên cao cấp. Có 47 tiến sỹ (37 người đang làm việc tại Sơn La và 10 người là người Sơn La đang làm việc tại nơi khác trong cả nước); Có 3 Phó giáo sư (01 đang làm việc tại Sơn La, 02 đang làm việc nơi khác),… [2].

Như vậy, từ số liệu trên có thể thấy, lao động của tỉnh Sơn La có sự chênh lêch khá lớn giữa thành thị và nông thôn và trong các loại hình kinh tế. Điều này tạo ra thách thức lớn cho việc điều chỉnh về quy mô, cơ cấu, đặc biệt là phân bổ nguồn lực trên địa bàn tỉnh một cách  hợp lý; tỉ lệ lao động đã qua đào tạo và có trình độ của Sơn La trong những năm qua tăng khá nhanh, song vẫn ở mức thấp,… Nhìn chung, bên cạnh tỉ lệ lao động qua đào tạo nói chung còn thấp, tỉnh Sơn La vẫn còn hạn chế trong việc phát triển NNLCLC, yếu tố quan trọng đến nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay.

Nghị quyết của HĐND tỉnh Sơn La khoá XIII về phát triển nhân lực tỉnh Sơn La giai đoạn 2011- 2020 xác định: để đáp ứng yêu cầu phát triển CNH, HĐH theo định hướng, các mục tiêu phát triển KT-XH của tỉnh cần phải tập trung vào các mục tiêu phát triển, nâng cao chất lượng NNL theo hướng phát triển nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng trên cả 3 yếu tố cơ bản sức khỏe, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức và cơ cấu hợp lý theo nhu cầu phát triển của nền KT-XH; Phát triển NNL trong mối quan hệ mật thiết giữa CNH, HĐH và đô thị, tiếp tục phân bổ lại dân cư trên địa bàn tỉnh nhằm đạt tới sự phát triển hài hòa giữa thành thị và nông thôn, giữa nông nghiệp và các ngành khác, tạo ra sự bứt phá mới về phát triển KT-XH; Phát triển nhân lực làm điểm tựa, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, góp phần đáp ứng yêu cầu lao động của tỉnh và đất nước, đồng thời có thể chủ động hội nhập tích cực vào thị trường lao động khu vực và thế giới bằng cách đa dạng hóa và nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu [3]. Đây là những định hướng, mục tiêu phát triển NNL lớn của tỉnh Sơn La trong giai đoạn tới.

          3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng NNL tỉnh Sơn La đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH

          3.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo

          Trước hết, Sơn La cần tăng cường đầu tư xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất - kĩ thuật cho giáo dục, đào tạo theo hướng đồng bộ, chuẩn hoá, tiên tiến và từng bước hiện đại. Đổi mới công tác quản lí tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước và NNL đầu tư cho giáo dục; tập trung đầu tư xây dựng các trường chuẩn quốc gia.

          Muốn nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, phải quan tâm xây dựng người thầy, do vậy, cần đặc biệt quan tâm xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục. Không chỉ thế, cần phải hết sức coi trọng việc hình thành và phát triển đội ngũ đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo và chuẩn nghề nghiệp. Để có đội ngũ giáo viên có chất lượng tốt, cần có chính sách ưu đãi thu hút nhân tài đang công tác trong ngành giáo dục, có kế hoạch đào tạo, tuyển chọn những HS giỏi ở các trường phổ thông gửi vào các trường sư phạm trọng điểm để đào tạo.

          Ngoài ra, đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục - đào tạo, coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Mục đích của đổi mới này để tạo ra NNL có chất lượng cao, có năng lực và kĩ năng thích ứng với thị trường lao động và công nghệ luôn biến đổi, đáp ứng yêu cầu về NNL trong thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH.

          Bên cạnh đó, Sơn La cần rà soát, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện và đổi mới cơ chế chính sách, huy động các nguồn đầu tư, phát triển giáo dục; mạnh dạn nghiên cứu, kiên quyết sửa đổi và thay thế các chính sách đã lạc hậu, bất cập, nhất là cơ chế chính sách về khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng thu hút nhân tài; xây dựng cơ chế hợp tác, đặt hàng với các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu trong việc đào tạo NNL cho Sơn La; có cơ chế chính sách và nguồn vốn để mở rộng quy mô và chất lượng đào tạo nghề, bởi thực tế hiện nay đào tạo nghề của Sơn La chưa thực sự phát triển, chưa phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế, CNH, HĐH.

          3.2. Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống cho người dân

          Sơn La cần quan tâm hơn nữa đến chính sách dân số, nâng cao chất lượng dân số, từng bước cải thiện tiêu chí cơ bản về sức khoẻ cho nhân dân, nâng cao chất lượng thể lực cho bà mẹ và trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Điều này có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển con người của Sơn La.

          Cùng với thực hiện tốt chính sách dân số, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, Sơn La cần quan tâm hơn nữa đến cải thiện môi trường sống cho người dân. Thực tế cho thấy, những năm gần đây vấn đề môi trường ở Sơn La có nhiều diễn biến xấu, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, chất lượng dân số, chất lượng NNL. Do đó, để có được môi trường sống lành mạnh, tạo được những con người khoẻ về thể chất, tỉnh cần có những chính sách vĩ mô, chiến lược tổng thể lâu dài, biện pháp đồng bộ, chứ không chỉ là các giải pháp tình thế trước mắt và ý thức trách nhiệm của người dân, các cấp, các ngành ở Sơn La trong việc bảo vệ môi trường cần được nâng cao; kiên quyết xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm huỷ hoại môi trường, đưa các cơ sở sản xuất này ra khỏi khu dân cư; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện bảo vệ môi trường nhằm phòng ngừa, khống chế ô nhiễm môi trường gây ra, hoặc khi có ô nhiễm môi trường xảy ra thì có thể chủ động xử lí, giảm thiểu tối đa tác động tới môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Cần đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ thân thiện với môi trường trong các hoạt động sản xuất. Tăng cường xây dựng cơ chế, chính sách huy động các nguồn vốn cho hoạt động bảo vệ môi trường.

          3.3. Đẩy mạnh phát triển văn hoá, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá các dân tộc

          Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX, Ban chấp hành Trung ương (khoá XI) khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị - xã hội”, “Phát triển văn hoá vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hoá” [4]. Vì vậy, nâng cao chất lượng NNL không thể thiếu môi trường văn hoá.

          Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hoá đối với sự phát triển xã hội nói chung, NNL của Sơn La nói riêng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIV xác định: “Phát triển NNL, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá các dân tộc. Trọng tâm là: Phối hợp xây dựng Trường Đại học Tây Bắc và một số trường của tỉnh trở thành trung tâm đào tạo nhân lực đa ngành, NNL có chất lượng đáp ứng yêu cầu chuyển dịch lao động của các địa phương trong vùng; gìn giữ, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc gắn với phát triển du lịch văn hoá, nhân văn” [5].

          Vì vậy, các cấp quản lí cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân, gia đình. Đồng thời, xây dựng và phát triển đời sống văn hoá, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc Thái, H’Mông,…Tăng cường kinh phí đầu tư cho phát triển văn hoá từ nguồn ngân sách nhà nước, đẩy mạnh công tác xã hội hoá. Coi đầu tư cho văn hoá là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các công trình văn hoá, sản phẩm văn hoá. Mở rộng hợp tác, giao lưu văn hoá trong nước và quốc tế để tiếp nhận những tinh hoa văn hoá làm giàu cho văn hoá Sơn La.

Bên cạnh đó, tiếp củng cố, mở rộng và đưa cuộc vận động “Xây dựng gia đình văn hoá”, “Làng bản văn hoá”,… đi vào chiều sâu, bảo đảm thực chất, gắn cuộc vận động này với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; mấu chốt là xây dựng và thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực đạo đức phù hợp với đối tượng, từng cơ quan, đơn vị, địa phương, trong đó có đội ngũ cán bộ, Đảng viên, trước hết là những người đứng đầu phải thực sự nêu gương và là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống,…

          4. Kết luận

Để có được NNLCLC cho tỉnh Sơn La phải xuất phát từ yêu cầu phát triển KT-XH, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, có như vậy mới có mục tiêu, định hướng phát triển đúng đắn. Để phát triển NNL, nhất là NNL có chất lượng của Sơn La, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ các giải pháp, trong đó chú trọng đến các giải pháp có tính chất cơ bản, chủ yếu, mà trước hết là phải đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của Sơn La. Đây được coi là giải pháp chủ yếu để phát triển NNL có chất lượng cho tỉnh “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [4]. Cùng với đó là nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống cho người dân, đẩy mạnh phát triển văn hoá, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá các dân tộc.

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Tạp chí Cộng sản (2012), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia - Sư thật, Hà Nội.

[2]. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê tỉnh Sơn La 2014, NXB Thống kê, Hà Nội.

[3]. Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Sơn La giai đoạn 2011 – 2020.http://tcdnsonla.edu.vn/quy-hoach-phat-trien-nguon-nhan-luc-tinh-son-la-giai-doan-2011-2020-85.html

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện hội nghị lần thứ IX, Ban Chấp hành Trung ương (Khoá XI), Văn phòng Trung ương Đảng.

[5]. Nguồn: http://susta.vn/bai-viet-Nghi-quyet-di-hoi-i-bieu-dng-bo-tinh-Son-La-ln-thu-XIV-830.html.

[6]. Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2015-2020 đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2015/32972/Phat-trien-nguon-nhan-luc-Viet-Nam-giai-doan-20152020-dap-ung.aspx

------------------------------------------------------

 

Bài viết đăng trên Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 6 – 2016.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CHUẨN BỊ CHO TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN

 

Th.s: Nguyễn Hải Minh

1. Đặt vấn đề

Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, trong đó lịch sử Việt Nam trong 30 năm từ ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến tháng 4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng hoàn toàn trọng vẹn đất nước là những năm tháng đẹp đẽ và hào hùng của lịch sử dân tộc. Trong những năm ấy, bằng những chiến công hiển hách chống chủ nghĩa đế quốc, nhân dân Việt Nam từ những người mất nước, không ai biết đến, đã “đứng vào hàng ngũ những dân tộc tiên phong trên thế giới”, trở thành “người chiến sĩ kiên cường chống đế quốc được cả loài người quý trọng”; bằng những thành quả to lớn của cách mạng đất nước Việt Nam đang từ nghèo nàn lạc hậu vươn lên xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa ấm no, hạnh phúc.

Ba mươi năm ấy trên đất nước Việt Nam đã diễn ra những cuộc đụng đầu quyết liệt chưa từng thấy với các đế quốc hiếu chiến hung hãn nhất, đại biểu cho chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới; đây chính là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt nhất nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất của dân tộc Việt Nam.

Trong suốt 30 năm kháng chiếng giang khổ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân không thể không kể tới những chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trung ương Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những khó khăn thử thách trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi chính quyền non trẻ phải đối mặt với nhiều kẻ thù hung hãn, muốn xóa bỏ nên độc lập non trẻ nước nhà trong giai đoạn 1945-1946; để từ đó chuẩn bị những điều kiện cần thiết và phát động toàn quốc kháng chiến 19-12-1946.

2. Nội dung

Sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta có những thuận lợi và khó khăn mới. Tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và bằng tài trí, kiên cường đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc vượt qua chặng đường lịch sử khó khăn nhất. Với khẩu hiệu hành động: “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, phải tập trung đối phó với kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược, hàng loạt các tổ chức cứu quốc được củng cố, mở rộng hoặc lập thêm… Người cùng Trung ương Đảng chỉ đạo những công việc cấp bách như: chống giặc đói, giặc dốt, tổ chức tổng tuyển cử, giáo dục lại nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, bác bỏ các thứ thuế vô lý và thực hiện tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết.

Nhận rõ tầm quan trọng của chính quyền như vậy, ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” nêu rõ: “Việc giành chính quyền càng dễ bao nhiêu thì việc giữ chính quyền càng khó bấy nhiêu”. “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước ta chưa được độc lập hoàn toàn”. Chỉ thị còn nêu rõ: “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng. Phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng tuy quân đội Tưởng Giới Thạch cũng là mối nguy cơ lớn cho ta, song chúng chưa công khai hành động xâm lược như thực dân Pháp”. [2,tr 67]

Với việc xác định kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng cho thấy sự sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi xác định đúng đắn kẻ thù chính của dân tộc để chúng ta tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Việc xác định kẻ thù nguy hiểm của dân tộc là thực dân Pháp là dự trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ cũng như phù hợp với tư duy biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin. Vì lợi ích chủ yếu của Tưởng Giới Thạch lúc bấy giờ vẫn là ở chính quốc và khi phong trào cách mạng trong nước phát triển mạnh thì không sớm thì muộn Tưởng Giới Thạch cũng phải rút quân về nước để bảo vệ lợi ích của mình.

Cùng với đó, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, bước đầu xây dựng một nền kinh tế mới và văn hóa mới. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành công tác đấu tranh ngoại giao khôn khéo đó là thực hiện chính sách nhân nhượng, hòa hoãn, tránh những xung đột bất lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chính sách của Việt Nam đối với Trung Hoa, lúc này tóm tắt lại là phải thân thiện” [4,tr 73]. Việc nhân nhượng đó đã hạn chế và làm vô hiệu hóa đến mức thấp nhất mọi hoạt động chống phá của quân Tưởng và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng, tạo cho ta kiến quốc và kháng chiến chống thực dân Pháp. Đối với Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng chính sách ngoại giao “hòa để tiến” nhằm mục đích để quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng và tranh thủ thời gian hòa hoãn, bảo toàn và chuẩn bị lực lượng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sang kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta” [5,tr 42].

Hiệp định Sơ bộ được ký ngày 6-3-1946 và tiếp đó là Tạm ước 14-9-1946 là những nội dung đàm phán được ký theo tinh thần đó. Từ Hiệp định Sơ bộ đến Tạm ước là thời gian quý giá để cho ta chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài sau này. Đánh giá những sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hòa bình. Dù thực dân Pháp đã bội ước, đã gây chiến tranh, nhưng gần một năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời gian để xây dựng lực lượng căn bản. Khi Pháp cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn nữa thì cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu” [6,tr 162]. Việc ký hiệp định sơ bộ 6-3-1946 còn thể hiện tài năng lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Trong giờ phút vận mệnh nước nhà “nghìn cân treo sợi tóc” phải có quyết định kịp thời, dứt khoát, sáng suốt, đúng đắng. Đánh giá việc làm này, năm 1970 đồng chí Lê Duẩn có viết:

“Lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì hòa hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, giành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta biết chắc là không thể nào tránh khỏi. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đã ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc” [1,tr 31].

Cần làm cho nhân dân thông suốt với chủ trương của Đảng và Chính phủ nhất là trong điều kiện bọn phản động Việt quốc, Việt cách xuyên tạc, vu cáo việc ký Hiệp định sơ b ộ. Ngày 7-3-1946, Hồ Chủ tịch nói chuyện trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô. Sau khi phân tích lợi ích của việc ký kết và dặn dò đồng bào bình tĩnh, giữ gìn kỉ luật, sẵn sàng chiến đấu, Hồ Chủ tịch xúc động nói: “Tôi, Hồ Chí Minh, suốt cuộc đời đã cùng đồng bào chiến đấu cho độc lập của tổ quốc. Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước”. [3,tr 388]

 

Đầu tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những “công việc khẩn cấp bây giờ”, vạch rõ những công việc về quân sự, chính trị, kinh tế… chuẩn bị kháng chiến lâu dài trên cả nước.

Như vậy trong khoảng thời gian từ ngày 2-9-1945 đến tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo Đảng, Chính phủ lãnh đạo toàn thể nhân dân vượt qua muôn vàn thử thách để bảo vệ được chính quyền cách mạng, xây dựng thực lực của dân tộc về mọi mặt. Chính vì vậy, nước Việt Nam đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, hòa giải, hòa hợp dân tộc, loại bỏ chia rẽ, đối lập, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đặc biệt, do đánh giá đúng thực lực của ta và địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng chính sách ngoại giao “mềm dẻo”, kết hợp khéo léo các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, biết nhân nhượng hòa hoãn có nguyên tắc nên đã đưa nước nhà vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Ngay từ đầu tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phác thảo những nét cơ bản của tư tưởng chỉ đạo kháng chiến toàn quốc trong thời kỳ mới và coi đó là “công việc khẩn cấp bấy giờ”. Hai nhiệm vụ “kháng chiến” và “kiến quốc” được Người xác định là phải đi đôi với nhau và phải “trường kỳ kháng chiến”.

Cuối năm 1946, tình hình diễn ra vô cùng căng thẳng, quân đội Pháp đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn, vào ngày đầu hạ tuần tháng 11-1946 và mở rộng chiến tranh xâm lược trên quy mô lớn và quyết liệt trên toàn miền Bắc. Đầu tháng 12 tình hình nghiêm trọng hơn, Pháp liên tiếp gây ra nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội. Quân và dân ta đã khẩn trương chuẩn bị nhưng vẫn kiên quyết bình tĩnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố rõ lập trường của Việt Nam: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình… Chúng tôi không muốn chiến tranh… Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm…” [7,tr 473]. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi lời kêu gọi các nước Anh, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Xô và các nước thành viên của Liên hợp quốc chấp nhận những yêu cầu chân chính của Việt Nam để vãn hồi hòa bình và để “khôi phục lại những quyền cơ bản của Việt Nam là được thừa nhận độc lập dân tộc và thống nhất lãnh thổ”. Người cũng liên tiếp gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên gặp gỡ với những người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh đổ máu. Song mọi cố gắng của Việt Nam đều vô hiệu. Quân đội Pháp liên tiếp nổ súng, đỉnh điểm của sự mâu thuẫn là Pháp gửi tối hậu thư đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, đòi để chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội, nếu không được chấp nhận chúng sẽ chuyển sang “hành động”. Tình thế vô cùng khẩn cấp, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh phải có một sự lựa chọn lịch sử đó là phát động toàn quốc kháng chiến. Để phát động toàn quốc kháng chiến Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vang dậy núi sông, như một mệnh lệnh chiến đấu, là hịch cứu nước của Tổ quốc, là một áng hùng văn thể hiện những nét đặc sắc của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Lời hịch phát động đúng thời điểm làm thấu động cả một dân tộc quyết đứng lên chiến đấu:

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”.

 Lời kêu gọi đã khơi dậy chủ nghĩa anh hùng dân tộc thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của con người Việt Nam. Đó là bản cương lĩnh kháng chiến mang tính khái quát cao, chứa đựng tư tưởng, quan điểm, đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, kháng chiến nhất định thắng lợi.

Tiếp đến, ngày 21-12-1946, Người đã gửi thư đến nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước Đồng minh nói rõ mục tiêu và ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của Việt Nam và khẳng định: “Cuộc kháng chiến rất lâu dài và đau khổ. Dù phải hi sinh bao nhiêu và thời gian kháng chiến đến bao giờ, chúng ta cũng nhất định chiến đấu đến cùng, đến bao giờ nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập và thống nhất. Chúng ta có 20 triệu chống lại 10 vạn thực dân. Cuộc thắng lợi của chúng ta rất được bảo đảm” [8,tr 484].

Nét đặc sắc trong khi phát động cuộc kháng chiến toàn quốc của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng là ở chỗ khẳng định cuộc chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh tực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Người cũng khẳng định phải đánh địch trên tất cả các mặt trận: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao vì chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến. Ta phải đánh lâu dài vì tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch, lực lượng ta còn mỏng, ta phải vừa chiến đấu, vừa xây dựng phát triển mọi mặt lực lượng, từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta. Kháng chiến lâu dài là “lấy nước trị lửa”, “qua nhiều giai đoạn khổ sở và gian lao”. Ta cũng phải dựa vào sức mình là chính không nên ỷ lại, trông vào sự giúp đỡ của bên ngoài.

Phát động và chỉ đạo cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý đến điều kiện “nhân hòa”: “Điều kiện diệt trừ quân địch phải là nhân hòa. Trong hai phe giao chiến, phe nào có đủ điều kiện nhân hòa là phe ấy thắng. Chỉ phe nào chính nghĩa mà chiến đấu, phe ấy mới có điều kiện nhân hòa” [9,tr 486]. Đó là thế trận lòng dân, hậu phương lòng dân, được nhân dân ủng hộ, thế giới tán thành, huy động, tập hợp được toàn dân tham gia kháng chiến để “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài”. Đó là nét đặc sắc trong chỉ đạo phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

3. Kết Luận

Khi đất nước ta mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì lại rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng nhờ những chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định đúng tình hình, đưa ra đường lối đúng đắn, phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành được thắng lợi vẻ vang. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc ta đang ra sức phấn đấu thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh đất nước sau 30 năm đổi mới đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.

Kỷ niệm 70 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến là dịp để chúng ta ôn lại và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Lê Duẩn “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng…” Nxb Sự thật, 1970.

2.      Nguyễn Kiên Giang. Việt Nam năm đầu sau Cách mạng tháng Tám. Nxb Sự thật, 1961.

3.      Võ Nguyên Giáp. Những chặng đường lịch sử. Nxb Sự thật 1977.

4.     Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính Trị Quốc Gia, 1995.

5.     Văn kiện Đảng 1945-1954, tập 1, Ban Nghiên Cứu Lịch sử Đảng trung ương. 1978.

6.     Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia. 1995.

7.     Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia. 1995.

8.     Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia.1995.

9.     Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia. 1995.

 

 

NHỮNG NÉT KHÁI LƯỢC VỀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI

 

                                                                  ThS. CAO THỊ HẠNH

Tóm tắt: Khi hệ thống chính trị cách mạng ở nước ta được hình thành (1945); phương thức lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và Mặt trận Dân tộc thống nhất đã phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng - giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Tuy nhiên, sau khi đất nước ta được giải phóng (1975), cơ chế lãnh đạo và quản lý cũ vẫn được duy trì; những hạn chế và yếu kém ngày càng bộc lộ rõ ràng.Đó là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội vào đầu thập kỷ 80. Bài viết này nêu những nét khái lược nhất về cơ chế vận hành của hệ thống chính trị thời kỳ từ 1945 - 1985.

Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và năm đoàn thể chính trị - xã hội (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam), và mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống.

Nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa các thành tố của hệ thống chính trị, trong đó có mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là yêu cầu khách quan ở nước ta hiện nay. Đổi mới và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

1.     Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị từ năm 1945 đến năm 1985

Giai đoạn 1945 - 1954:Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đánh dấu sự hình thành ở nước ta một hệ thống chính trị cách mạng. Đảng và Nhà nước ta khẳng định nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới là củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; đặt lợi ích của dân tộc lên hàng đầu.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trên, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị thực hiện theo phương châm lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện. Với một Nhà nước vừa mới ra đời, trong khi phần lớn đội ngũ cán bộ trong bộ máy Nhà nước còn chưa quen với nghiệp vụ hành chính. Các cấp, các ngành đều bỡ ngỡ trong việc quản lý đất nước, quản lý xã hội, lại phải đối đầu với nguy cơ chống phá của các thế lực thù địch, đồng thời cùng dân tộc tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh đó buộc Đảng vừa phải gánh vác chức năng lãnh đạo, vừa gánh vác phần lớn công việc quản lý.

Khi cả nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Đảng gánh vác cả công việc lãnh đạo, quản lý và chỉ huy; vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước hòa quện vào nhau; trong lãnh đạo có quản lý và ngược lại, trong quản lý có lãnh đạo. Quan hệ đó được thực hiện thông qua đội ngũ đảng viên của Đảng hoạt động trong bộ máy Nhà nước. Với đặc điểm đó, có thể nói quan hệ giữa Nhà nước với Đảng như “hai trong một”, “một mà hai”. Nhờ quan hệ này mà sức mạnh của toàn dân tộc được phát huy làm nên chiến thắng Điên Biên Phủ lẫy lừng, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tạo tiền đề cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Giai đoạn 1954 - 1975:Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, trong hoàn cảnh đó Đảng và nhân dân ta cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là đưa miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa tiến hành sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng mới, nhiệm vụ đặt ra cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nặng nề hơn. Do vậy, phương châm lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của Đảng đối với Nhà nước vẫn được thực hiện trong giai đoạn này. Quan hệ giữa Nhà nước với Đảng như “hai trong một”, “một mà hai”vẫn phát huy tính hiệu quả trong hoạt động lãnh đạo và quản lý xã hội. Những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền Nam chứng minh tính hiệu quả đó.

Giai đoạn 1975 - 1985:Khicả nước bước vào thời kỳ hòa bình, cơ chế vận hành của hệ thống chuyên chính vô sản được chỉ đạo bởi đường lối của Đại hội IV(1976) và Đại hội V(1982). Trong bối cảnh mới, cơ chế lãnh đạo và quản lý cũ vẫn được duy trì; những hạn chế và yếu kém trong lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ngày càng bộc lộ rõ ràng.

          Sự lẫn lộn về chức năng và nhiệm vụ, sự chồng chéo về tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước ngày càng lớn. Nhà nước có bộ nào thì Đảng có ban ấy. Bộ máy của Nhà nước và Đảng cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả. Trách nhiệm của tổ chức Đảng, cấp ủy Đảng trong quan hệ với Nhà nước thiếu rõ ràng và cụ thể. Tình trạng này làm suy yếu cả sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Khi các cấp ủy Đảng đã quyết tất cả thì các cấp chính quyền chỉ còn việc thực hiện. Đảng trực tiếp làm công việc của Nhà nước. Nhà nước trực tiếp làm công việc sản xuất, kinh doanh và phân phối. Các tổ chức chính trị - xã hội chỉ mang tính hình thức. Người dân mất quyền dân chủ, quyền làm chủ. Đời sống chính trị ngày càng trì trệ, tệ quan liêu, tham nhũng hoành hoành, không phân biệt rõ đâu là trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, đâu là trách nhiệm của các tổ chức Đảng.

Như vậy, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng cấp, từng đơn vị chưa được xác định thật rõ, mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm tốt chức năng của mình. Những hạn chế, sai lầm trên đây cùng những yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế, đã thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy về hệ thống chính trị.

Tài liệu tham khảo:

1 - Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.109.

2 - Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991 - 2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.127.

3 - Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 70.

 

 

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN TRONG DẠY HỌC “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN” Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG KHU VỰC TÂY BẮC HIỆN NAY

                                                                                          ThS.Hoàng Phúc

Khoa Lý luận chính trị - Trường Đại học Tây Bắc

 

1. Đặt vấn đề

Bất kỳ thời đại nào nguồn lực con người luôn là vị trí trung tâm, là động lực của sự phát triển xã hội, trước sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, với lượng tri thức tăng lũy tiến với tốc độ lớn như hiện nay thì việc người dạy lên lớp theo một chương trình đào tạo khép kín của các môn học nói chung và môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin bậc đại học, cao đẳng nói riêng đã bộc lộ những hạn chế so với xu hướng giáo dục - đào tạo hiện nay.

Thực tế trong giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin ở các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc, một vấn đề luôn được giảng viên và sinh viên quan tâm là làm thế nào để tự nắm bắt được nội dung Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin? Vấn đề không đơn giản là sự nhồi nhét của người dạy và người học cố gắng thuộc lòng những nguyên lý, quy luật phổ biến của khoa học này đã được trình bày trong giáo trình. Đặc biệt là, đa số sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng khu vực Tây Bắc là người dân tộc thiểu số (là vùng miền núi có trên 20 dân tộc cùng sinh sống như: Thái, Mông, Khơmú, Tày,…) với khả năng trừu tượng hóa thấp, năng lực tự nhận thức chưa hoàn thiện, nhất là tính độc lập trong tư duy và cách thức chuyển hóa tri thức của người dạy thành tri thức của người học.

      Từ những vấn đề thực tiễn đặt ra, đòi hỏi cần phải có những nhận định đồng bộ, toàn cảnh về thực trạng dạy và học của giảng viên và sinh viên môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin ở các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc, từ đó có thể rút ra nguyên nhân, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trong thời gian tới.

             2. Nội dung

              2.1. Thực trạng phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong dạy học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin ở các trường Đại học, Cao đẳng khu vực Tây Bắc

2.1.1. Những đặc trưng cơ bản của địa bàn nghiên cứu

Vùng Tây Bắc bao gồm 4 tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hoà Bình, tổng diện tích tự nhiên toàn vùng 3.733.000 ha (chiếm khoảng 11,3% diện tích tự nhiên cả nước). Phía Bắc giáp với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc có đường biên giới dài 310 km; phía Tây giáp tỉnh Luông Pha Băng và Phông Sa Lỳ - Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, có đường biên giới dài 623 km; phía Đông giáp tỉnh Yên Bái, Phú Thọ; phía Nam tiếp giáp với các tỉnh Ninh Bình, Hà Nội.

Đặc điểm nổi bật của dân cư vùng Tây Bắc: đa số là đồng bào các dân tộc ít người (chiếm 79,2%), thuộc khoảng hơn 20 dân tộc khác nhau. Trong đó, dân tộc Thái chiếm 32,3% dân số trong vùng (và chiếm 54% trong tổng số người Thái của cả nước), dân tộc Mường chiếm 24,8% (chiếm 48,5% trong tổng số người Mường của cả nước), dân tộc H'mông chiếm 13% (chiếm 36,7% trong tổng số người H'mông của của nước), các dân tộc sinh sống rải rác ở các vùng cao, vùng sâu nên điều kiện giao lưu và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Chính các điều kiện trên là nhân tố tác động không nhỏ đến việc phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin ở các trường ĐH, CĐ khu vực Tây Bắc.

       2.1.2. Đặc điểm sinh viên các trường đại học, cao đẳng vùng Tây Bắc                  

       Nghiên cứu đặc điểm SV nói chung, SV các trường ĐH, CĐ vùng Tây Bắc nói riêng, có thể thấy một số điểm nổi bật sau:

Đây là lực lượng xã hội vừa mang đặc điểm của đội ngũ trí thức vừa mang đặc điểm của thanh niên. Họ là học sinh vừa tốt nghiệp trường phổ thông trung học, độ tuổi từ 18 đến 22, đang ở giai đoạn trưởng thành về thể chất và tâm lý. Môi trường giáo dục phổ thông nên ở họ còn thiếu vốn kiến thức thực tiễn và năng lực tự học như: Khả năng tự tiếp cận thông tin còn hạn chế, thu nhận thông tin ít chọn lọc, kỹ năng tự nghiên cứu, đọc sách chưa khoa học, dao động khi gặp khó khăn trong học tập với lượng kiến thức lớn.... đây là đặc điểm mà khi dạy học nhằm phát triển năng lực tự học cần phải chú ý để có nội dung, hình thức tổ chức dạy học phù hợp.

Ngoài những đặc điểm chung như đã nêu trên, do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội, SV các trường ĐH, CĐ vùng Tây Bắc còn có những đặc thù riêng, đó là những phẩm chất tốt đẹp của người dân tộc miền núi như: hiền lành, thật thà, chăm chỉ, đa số sinh viên chấp hành tốt những quy định của nhà trường.

2.1.3. Thực trạngnhận thức về dạy học phát triển năng lực tự học của sinh viên và giảng viên ở các trường Đại học, Cao đẳng khu vực Tây Bắc hiện nay

Khách thể khảo sát là sinh viên các chuyên ngành khác nhau thuộc các trường Đại học Tây Bắc, Cao đẳng Điện Biên, Cao đẳng cộng đồng Lai Châu đến từ nhiều địa phương khác nhau thuộc khu vực Tây Bắc, có đặc điểm kinh tế, trình độ nhận thức khác nhau nhưng cùng chung một nhiệm vụ là học tập, nghiên cứu môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Để có bức tranh toàn cảnh về thực trạng phát triển năng lực tự học của sinh viên các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 500 sinh viên đang học tại 3 trường: Đại học Tây Bắc, Cao đẳng Sư phạm Điện Biên, Cao đẳng cộng đồng Lai Châu.

Với bảng hỏi anh /chị hãy cho biết quan niệm của mình về tự học của sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng. Kết quả khảo sát nội dung quan niệm về tự học của sinh viên cho thấy 94% mẫu cho rằng tự học là tự củng cố, tích lũy các kiến thức đã học trong quá trình học tập; 95% mẫu tự học là việc học ở nhà khi có thời gian; 98% mẫu tự học là việc học của bản thân khi không có thầy trực tiếp; 98% mẫu tự học là tự mình đọc sách, tài liệu. Như vậy, đa số sinh viên đã có nhận thức đúng về tự học, đặc biệt là xác định được đó là nhiệm vụ của cá nhân mình trong việc tự giác chiếm lĩnh tri thức môn học. Có 76% mẫu cho rằng tự học là học thuộc bài đã học trên lớp và hoàn thành các yêu cầu học tập do giảng viên đề ra, điều này cho thấy trong ý thức của mình, các sinh viên còn có tư tưởng bị động trong học tập và sử dụng phương pháp đọc ghi nhớ (học vẹt) là chủ yếu.

Điều đáng lưu tâm là chỉ có 42% mẫu đồng ý với nội dung tự học là tự tìm kiếm, nghiên cứu các vấn đề liên quan đến môn học để khám phá, mở rộng tri thức, số liệu này cho thấy có một bộ phận không nhỏ sinh viên chưa thực sự xác định động cơ học tập là mở rộng kiến thức thông qua con đường tự học, tự nghiên cứu của mình. Chỉ với 22% mẫu đồng ý với nội dung tự học là tự lập kế hoạch cho việc học tập và thực hiện kế hoạch đó, cho thấy còn rất nhiều sinh viên chưa biết hoặc chưa được hướng dẫn xây dựng kế hoạch tự học cho riêng mình, điều này cũng lý giải việc sinh viên lựa chọn nhiều đến phương án học thuộc các nội dung đã học và bị động thực hiện các yêu cầu do giảng viên đề ra.

Khi được hỏi anh/chị hãy cho biết ý kiến của mình về vai trò, ý nghĩa của tự học đối với bản thân và sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng. Kết quả khảo sát về vai trò, ý nghĩa của tự học đối với bản thân và sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng, kết quả cho thấy 91,2% mẫu đã nhận đúng về vai trò tích cực của tự học khi lựa chọn đồng ý với các nội dung tự học giúp bạn nắm vững kiến thức đã học trên lớp; tự học giúp bạn mở rộng, hiểu sâu kiến thức; tự học giúp bạn đạt kết quả cao trong học tập; tự học giúp bạn hoàn thành tốt những nhiệm vụ học tập do giảng viên đề ra. Đây là điểm tích cực đối với nhận thức của sinh viên khi họ mới rời môi trường học tập ở trường phổ thông quen với phương pháp học tập bị động, vào học năm thứ nhất ở các trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên, với phương án tự học giúp bạn phát huy tính độc lập, sáng tạo trong học tập 33,6% mẫu; tự học giúp bạn có khả năng phát hiện và giải quyết các vấn đề trong học tập 33% mẫu; tự học giúp bạn phát triển kỹ năng học tập và học suốt đời chỉ có 31,2% mẫu đồng ý cho thấy nhận thức về ý nghĩa, vai trò của việc hình thành năng lực tự học của sinh viên chưa cao. Với sinh viên, việc nhận thức đúng vai trò, ý nghĩa của tự học sẽ là cơ sở quan trọng định hướng sự phấn đấu, rèn luyện của mỗi người trong suốt quá trình học tập, tỷ lệ 91,6% mẫu đồng ý với nội dung tự học là khâu không thể thiếu trong quá trình học tập của sinh viên; chỉ có thể tự học mới hoàn thành mục tiêu chương trình đào tạo; tự học giúp bạn có năng lực tự lĩnh hội tri thức, cho thấy ngay từ năm thứ nhất các em đã xác định được vai trò của tự học trong chương trình giáo dục và đào tạo ở các trường Đại học và Cao đẳng.

Ở nội dung tự học giúp bạn có thêm kiến thức để trao đổi với người khác trong thảo luận 77% mẫu đồng ý; tự học giúp bạn thỏa mãn sự ham hiểu biết và tính tò mò trong học tập và cuộc sống 72% mẫu đồng ý; để đạt được kết quả cao trong học tập có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau chứ không chỉ bằng tự học có tỷ lệ đồng ý khá cao là 82,4% mẫu, điều này chứng tỏ còn có một bộ phận không nhỏ trong sinh viên  chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của tự học trong học tập và cuộc sống, lý giải vì sao đa số sinh viên chỉ chú trọng đầu tư đến việc học khi bước vào đợt thi kết thúc học phần, thậm trí có khá nhiều sinh viên sẵn sàng vi phạm quy chế thi, chạy điểm, xin điểm để đạt kết quả cao trong học tập. Họ chưa xác định được rằng, chỉ có con đường tự học, tự chiếm lĩnh tri thức mới có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập và giải quyết được mâu thuẫn giữa lượng tri thức cần tiếp thu và hạn chế nhận thức của bản thân.

Các biểu hiện ngoài giờ học trên lớp phải thực hiện rất nhiều các công việc khác; học trên lớp căng thẳng vì vậy thời gian còn lại tranh thủ nghỉ ngơi, giải trí và làm các công việc khác với tỷ lệ 56,4% mẫu đồng ý cho thấy số lượng sinh viên chưa thực sự đặt nhiệm vụ học tập lên trên hết còn khá cao, nội dung này có liên quan mật thiết đến nhận thức của sinh viên về nhiệm vụ học tập, từ đó tác động đến việc hình thành động cơ tự học chưa cao

Kết quả các biểu hiện tiêu cực học qua loa, đại khái nếu giáo viên không nghiêm khắc 37,2% mẫu đồng ý; thờ ơ khi thấy bạn miệt mài tự học nản 37,4% mẫu đồng ý; khi tự học là cảm thấy mệt mỏi, chán 37,2% mẫu đồng ý; không chú ý nêu những thắc mắc trong khi học với tỷ lệ 37,6% mẫu đồng ý, lựa chọn với số lượng không nhỏ này đã phản ánh được có một bộ phận sinh viên thực sự không có động cơ tự học, tự nghiên cứu để nâng cao kết quả học tập của mình, quá trình nhận thức của họ hoàn toàn phụ thuộc vào sự tác động của giảng viên và lượng kiến thức trên lớp được trang bị.

Thực trạng phát triển năng lực tự học của sinh viên bị chi phối bởi nhiều yếu tố trong đó có nhân tố là các giảng viên trực tiếp giảng dạy bộ môn này, qua điểu tra phỏng vấn 30 người là giảng viên các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc, chúng tôi nhận đã tiếp nhận được một số thông tin sau: 83,3% mẫu đồng ý với mức độ rất quan trọng và 16,7% mẫu quan trọng, cho thấy hầu hết các thầy, cô đều nhận thức được việc phát triển năng lực tự học cho sinh trong giảng dạy môn này có vai trò rất lớn, ngoài việc trang bị tri thức cho sinh viên, thì dạy cách thức tiếp cận nội dung thông qua con đường tự học được giảng viên rất đề cao, bởi khi đó mới hội tụ đủ phẩm chất cần có của người học.

2.1.4. Thực trạng tổ chức dạy học phát triển năng lực tự học của sinh viên và giảng viên ở các trường Đại học, Cao đẳng khu vực Tây Bắc hiện nay

Như chúng ta đã biết, hoạt động tự học đòi hỏi sinh viên phải thực hiện khối lượng nhiệm vụ tương đối lớn với sự căng thẳng về mức độ và cường độ làm việc, vì vậy trong quá trình tự học ngoài sự nỗ lực và ý chí quyết tâm, sự phát triển năng lực tự học và kết quả học tập còn phụ thuộc vào các kỹ năng được thực hiện trong suốt thời gian tự học của sinh viên. Để hiểu về vấn đề này, luận án đã sử dụng các bảng hỏi nhằm xác nhận thông tin về kỹ năng và mức độ sinh viên đã thực hiện qua việc học tập môn học Những NLCB của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Với câu hỏi xin anh/chị vui lòng cho biết những công việc tự học môn Những NLCB của chủ nghĩa Mác - Lênin dưới đây được anh/chị thực hiện mức độ nào?Căn cứ vào các mẫu lựa chọn của sinh viên, ta thấy sự phát triển năng lực tự học của sinh viên thông qua việc thực hiện các kỹ năng còn ở mức trung bình, còn tỏ ra lúng túng và chưa thường xuyên. Ở nhóm kỹ năng định hướng, bao gồm các nội dung phát hiện vấn đề tự học; lựa chọn vấn đề tự học; lập kế hoạch tự học được sinh viên thực hiện ở mức độ thấp với 31% mẫu thường xuyên còn lại là thỉnh thoảng và không làm, tỷ lệ này phản ánh sự lúng túng, bị động của sinh viên trong việc tự tìm và xây dựng kế hoạch tự học. Đây là hạn chế cơ bản nói lên thực trạng chung của sinh viên các trường đại học và cao đẳng khu vực Tây Bắc chưa thực sự tích cực, chủ động trong học tập và rèn luyện, trong suốt quá trình học tập sinh viên phụ thuộc phần lớn vào sự giao việc của giảng viên bộ môn.

            Nhóm kỹ năng thực hiện hoạt động tự học, bao gồm kỹ năng chọn sách và tài liệu tham khảo để học 15% mẫu thường xuyên; tóm tắt thông tin theo từng vấn đề 14% mẫu thường xuyên; bổ sung thông tin sau khi đọc tài liệu 16,2% mẫu thường xuyên, cho thấy khả năng độc lập trong học tập của sinh viên còn rất thấp. Trong các kỹ năng của nhóm này chỉ có kỹ năng được sinh viên thực hiện tốt hơn cả là kỹ năng ghi chép những thông tin trong giờ học trên lớp với số lượng mẫu thường xuyên là 96,6%, đây là kỹ năng cơ bản ở bậc học phổ thông. Biết rằng việc ghi chép thông tin trên lớp và khi đọc tài liệu là điều kiện cần thiết, bắt buộc của quá trình học tập, nhưng điều đó chưa đủ, vì khâu tiếp theo là nghiên cứu sử lý thông tin mới là quan trọng, quyết định quá trình chuyển hóa tri thức của người dạy thành tri thức của người học.

Để hoạt động tự học có hiệu quả, sinh viên cần thiết phải hình thành, phát triển các kỹ năng đọc và ghi chép thông tin khi đọc tài liệu; hệ thống hóa kiến thức đã học; lập dàn ý một vấn đề tự học; phân tích, so sánh đối chiếu kiến thức đã học với thực tiễn. Đây là những công việc không thể thiếu của người học khi thực hiện chương trình đào tạo bậc đại học, cao đẳng, vì những kiến thức trang bị cho sinh viên mà giảng viên thực hiện trên lớp chỉ dừng lại ở mức độ cơ bản, còn chủ yếu vẫn là tự sinh viên khai thác trong tài liệu, trong khi đó năng lực tự học của sinh viên chỉ thõa mãn ở yêu cầu học lại những kiến thức thầy dạy, từ đó ta có thể nhận thấy mâu thuẫn xuất hiện trong quá trình giáo dục – đào tạo giữa lượng kiến thức cần trang bị cho sinh viên và thực trạng năng lực tự học, tự nghiên cứu của họ, trong điều kiện giờ lý thuyết trên lớp có xu hướng ngày càng giảm đi.

Riêng hai kỹ năng vận dụng lý thuyết vào thực tiễn 19% mẫu thường xuyên; tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả tự học của sinh viên có tỷ lệ thấp với 30% mẫu thường xuyên, còn lại là thỉnh thoảng và không thực hiện đã nói lên thực trạng phát triển năng lực tự học của sinh viên các trường đại học và cao đẳng khu vực Tây Bắc ở mức rất thấp, vì đây là một trong những kết quả rõ nét nhất phản ánh toàn bộ quá trình triển khai công việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Kỹ năng này trong bất kỳ hoạt động nào cũng có vai trò quan trọng, nó giúp chủ thể kịp thời phát hiện và điều chỉnh hành động của bản thân, đảm bảo cho kết quả phù hợp với mục đích, yêu cầu đã đề ra. Trong quá trình tự học, do không có sự tổ chức giám sát, điều khiển trực tiếp của người dạy, sinh viên phải chủ động tự tổ chức, điều khiển các hoạt động học tập của bản thân nên việc tự kiểm tra, đánh giá càng trở nên cần thiết.

Để đảm bảo được chất lượng tự học, đòi hỏi sinh viên phải hội tụ những phẩm chất, năng lực nhất định như ý thức học tập, tính khoa học trong học tập, nghiên cứu, môi trường học tập của tập thể sinh viên, sự tác động của giảng viên, nhà trường...Với tư cách là nhân tố chủ quan, bên trong có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tự học của sinh viên, với 91% mẫu thể hiện mức độ ít và không các nội dung xác định được vấn đề cần giải quyết trong tự học; có kỹ năng đọc sách và tài liệu tham khảo; kiểm tra và phân tích kết quả tự học; thực hiện nghiêm túc kế hoạch tự học, cho thấy tỷ lệ sinh viên có năng lực tiếp cận các vấn đề để tự giác học tập còn thấp. Kỹ năng đọc sách có vai trò quan trọng trong quá trình tự học, vì người học chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập khi chịu khó và biết cách đọc sách, có khả năng tìm và tự nghiêncứu kiến thức trong các nguồn tài liệu để hiểu sâu sắc hơn những tri thức đã học và mở rộng, bổ sung vốn hiểu biết của mình ở các lĩnh vực khác, sinh viên chưa nhận thức được rằng, trong chương trình đào tạo, lượng kiến thức các thầy cô trang bị chỉ là điều kiện “cần”, vì đó chỉ là những vấn đề cơ bản, cốt lõi của nội dung môn học.

Nhóm các nhân tố khách quan thuộc về môn học, các phương tiện học tập và sự tác động của Nhà trường, thầy cô, gia đình và xã hội. Với 75% mẫu cho rằng nội dung bài học, môn học hấp dẫn hay nội dung bài học, môn học thiếu hấp dẫn, quá khó có ảnh hưởng nhiều đến việc tự học của các sinh viên, có thấy trách nhiệm của giảng viên rất quan trọng, để sinh viên nhận thức được vị ví, vai trò và sự hấp dẫn của môn học, phụ thuộc nhiều vào cách đặt vấn đề và phương pháp truyền thụ tri thức bài học cho sinh viên. Các nội dung thư viện nhà trường phong phú đầu sách phục vụ cho tự học; rất hiếm sách và tài liệu tham khảo; điều kiện, cơ sở vật chất phục vụ cho tự học, được đa số sinh viên chọn có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng tự học của họ, với 98,2% mẫu, đây là điều kiện “cần” có vai trò chi phối đến việc phát triển năng lực tự học của sinh viên các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc, vốn rất thiếu nguồn cung cấp học liệu cho người học trong các cơ sở đào tạo, cũng như điều kiện kinh tế của sinh viên còn hạn chế. Việc học tập theo chương trình đào tạo trú trọng đến tự học chỉ đạt kết quả cao khi chúng ta có đủ các điều kiện cần thiết hỗ trợ cho sinh viên như sách báo, tài liệu chuyên ngành, phòng đọc, thư viện điện tử.

Các nhân tố khách quan thuộc về giảng viên và tập thể lớp cũng được sinh viên đánh giá cao, qua việc lựa chọn 86,6% mẫu cho rằng tập thể sinh viên có bầu không khí tự học sôi nổi ảnh hưởng nhiều đến tự học, đó là chính là môi trường học tập, với một tập thể có phong trào thi đua trong học tập sẽ có tác dụng cuốn hút, tác động đến việc phát triển ý thức học tập của mọi thành viên trong lớp.

Trong quá trình dạy học, các biện pháp và kỹ năng của giảng viên cũng tác động không nhỏ đến phát triển năng lực tự học của sinh viên, với 87% mẫu cho rằng giảng viên dạy học biết kích thích tính tích cực tự học của sinh viên; giảng viên dạy học theo kiểu thông báo tái hiện kiến thức không kích thích tính tích cực tự học tố kết quả đánh giá của giảng viên phải chuẩn mực, khách quan.Việc kiểm tra, đánh giá của giảng viên cũng được sinh viên lưu ý, vì nó là kết quả phản ánh trực tiếp nỗ lực của họ trong quá trình tự học. Có 83,6% mẫu lựa chọn nhiều cho rằng giảng viên luôn yêu cầu cao và nghiêm túc trong kiểm tra, đánh giá kết quả của sinh viên; nội dung kiểm tra luôn đòi hỏi sinh viên phải suy luận mở rộng và vận dụng kiến thức; giảng viên ít chú ý kiểm tra nhắc nhở sinh viên tự học; giảng viên cho điểm rộng rãi khi kiểm tra, đánh giá; giảng viên chưa khách quan, công bằng trong đánh giá học tập của sinh viên, tác động lớn đến ý thức tự học của họ. Năng lực tự học chỉ có thể duy trì thường xuyên và phát triển nếu sinh viên tự luôn phấn đấuvà chịu sự tác động quyết liệt, liên tục của giảng viên và môi trường học tập.

            Một trong những yêu cầu quan trọng của phát triển năng lực tự học là tự kiểm tra, đánh giá sự hiểu biết của bản thân để từ đó tự điều chỉnh hành vi học tập, nhưng yêu cầu này được sinh viên các trường đại học, cao đẳng thực hiện chưa đảm bảo, chỉ có 25% mẫu trả lời thường xuyên, 51,4% mẫu thỉnh thoảng. Đây là điểm hạn chế quan trong góp phần không nhỏ tác động đến kết quả học tập của sinh viên đối với môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Việc sử dụng các phương tiện để tự học như internet, sách, báo… cũng được sinh viên thực hiện ở mức độ không cao với 43,2% mẫu thường xuyên, một mặt phản ánh nhận thức và thái độ của họ trong tự học, mặt khác cũng nói lên sự năng động và tính độc lập của sinh viên của khu vực miền núi Tây Bắc còn hạn chế rất nhiều so với sinh viên các trường đại học, cao đẳng khu vực khác. Ngoài ra, các yếu tố như thư viện điện tử, lượng sách báo ở thư viện các trường, điều kiện kinh tế cá nhân còn hạn hẹp cũng tác động không nhỏ đến việc hình thành và phát triển các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.

Qua phân tích thực trạng phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin ở các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc, cho ta thấy bức tranh về phát triển năng lực tự học trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua đó, thể hiện sự cần thiết và khuynh hướng phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực tự học cho sinh viên.

2.2.Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra với việc phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong giảng dạy môn Những NLCB của chủ nghĩa Mác – Lênin ở các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc

2.2.1.  Nhận thức về phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong giảng dạy môn Những NLCB của chủ nghĩa Mác – Lênin

Trong quá trình dạy học, hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học của sinh viên là hai hoạt động thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại, quy định lẫn nhau. Cả hai hoạt động ấy đều nhằm mục đích cuối cùng là người học tích cực, tự giác trong nhận thức để chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, có khả năng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Như vậy, hoạt động học, tự học của sinh viên luôn có mối quan hệ biện chứng và thống nhất với hoạt động dạy học của giảng viên, không tách rời vai trò chủ đạo của người dạy và nội dung bài giảng, vì xét đến cùng cả hai hoạt động đó đều đi đến một mục tiêu duy nhất là nhận thức của người học về kiến thức môn học.

Tuy nhiên, quá trình đó cũng bộc lộc những hạn chế cơ bản, đó là chưa tạo ra tính chủ động thực sự cho sinh viên, họ vẫn hoàn toàn bị động trong việc lĩnh hội tri thức. Việc truyền đạt kiến thức một chiều trong giảng viên vẫn là phổ biến, hay nói cách khác vẫn chưa phát triển được năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên trong dạy học Những NLCB của chủ nghĩa Mác – Lênin ở các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc. Qua khảo sát với các bảng hỏi để nhận biết được quá trình dạy - học của giảng viên và sinh viên chúng tôi nhận thấy ở nhóm kỹ năng định hướng, bao gồm các nội dung phát hiện vấn đề tự học; lựa chọn vấn đề tự học; lập kế hoạch tự học được sinh viên thực hiện ở mức độ thấp tỷ lệ này phản ánh sự lúng túng, bị động của sinh viên trong việc tự tìm và xây dựng kế hoạch tự học. Đây là hạn chế cơ bản của sinh viên các trường đại học và cao đẳng khu vực Tây Bắc chưa thực sự tích cực, chủ động trong học tập và rèn luyện, trong suốt quá trình học tập sinh viên phụ thuộc phần lớn vào sự giao việc của giảng viên bộ môn.

2.2.2.Tổ chức hoạt động dạy học phát triển năng lực tự học của sinh viên và giảng viên ở các trường Đại học, Cao đẳng khu vực Tây Bắc hiện nay

            Nhóm kỹ năng thực hiện hoạt động tự học, bao gồm kỹ năng chọn sách và tài liệu tham khảo để học; tóm tắt thông tin theo từng vấn đề…Bổ sung thông tin sau khi đọc tài liệu, cho thấy khả năng độc lập trong học tập của sinh viên còn rất thấp. Trong các kỹ năng của nhóm này chỉ có kỹ năng được sinh viên thực hiện tốt hơn cả là kỹ năng ghi chép những thông tin trong giờ học trên lớp, như ta đã biết đây là kỹ năng cơ bản ở bậc học phổ thông.

Để hoạt động tự học có hiệu quả, sinh viên cần thiết phải hình thành, phát triển các kỹ năng đọc và ghi chép thông tin khi đọc tài liệu; hệ thống hóa kiến thức đã học; lập dàn ý một vấn đề tự học; phân tích, so sánh đối chiếu kiến thức đã học với thực tiễn. Vì đây là một trong những kết quả rõ nét nhất phản ánh toàn bộ quá trình triển khai công việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Kỹ năng này trong bất kỳ hoạt động nào cũng có vai trò quan trọng, do không có sự tổ chức giám sát, điều khiển trực tiếp của người dạy, nên sinh viên phải chủ động tự tổ chức, điều khiển các hoạt động học tập của bản thân nên việc tự kiểm tra, đánh giá càng trở nên cần thiết.

Kết quả khảo sát nhóm các phương pháp, kỹ năng được các thầy, cô ở các trường khảo sát thực hiện như: thuyết trình; thuyết trình kết hợp với các phương pháp khác; thảo luận (seminar); nêu vấn đề; đàm thoại được tất cả các thầy, cô thực hiện ở mức thường xuyên khá cao, tuy nhiên với nhóm kỹ năng hướng dẫn tự học, tự nghiên cứu nội dung bài học; hướng dẫn các kỹ năng đọc sách, tra cứu tài liệu; giao bài tập (vấn đề) cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu trước và sau giờ lên lớp; kiểm tra, đánh giá các bài tập đã giao cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu được các giảng viên thực hiện ở mức độ khá thấp.

Qua đây chúng ta có thể thấy, ngoài yếu tố tự thân sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tự học, còn phụ thuộc vào nhận thức và các phương pháp, kỹ năng mà các thầy, cô thực hiện trên lớp môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Mặt khác, khi tiến hành điều tra về phương thức kiểm tra, đánh giá thì hầu hết các giảng viên ở các trường đều sự dụng phương pháp đánh giá dưới dạng ghi nhớ, thuộc lòng các nội dung trong bài học, (với 100% mẫu trả lời là thường xuyên). Đây là phương pháp truyền thống, dù có nhiều ưu điểm nhưng đã phần nào không còn phù hợp trong xu thế dạy học hiện đại ngày nay.

3. Kết luận

Từ việc nghiên cứu thực tiễn về phát triển năng lực tự học cho  sinh viên trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin ở các trường đại học, cao đẳng nói chung và sinh viên các trường khu vực Tây Bắc nói riêng, chúng ta nhận thức được rằng, dạy học theo hướng phát triển năng lực tự học chính là một cách thức dạy học, một quy trình quan trọng trong giáo dục và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng, trong đó người học đóng vai trò chủ động, tích cực, tự giác và độc lập chiếm lĩnh, khám phá tri thức bằng hoạt động của chính bản thân mình, còn giảng viên đóng vai trò chủ đạo giúp đỡ, hướng dẫn nhằm định hình năng lực tự học cho người học, trên cơ sở đó có một phương pháp tự học, tự nghiên cứu đúng đắn, khoa học và hiệu quả.

Qua điều tra thực trạng về năng lực tự học trong sinh viên và giảng viên ở các trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc cho thấy: Đa số sinh viên chưa nhận thức sâu sắc được vai trò, ý nghĩa của việc phát triển năng lực tự học, chưa có cách thức, phương pháp tự học đúng đắn; giảng viên nhận thức được vai trò tự học và cho rằng chỉ bằng cách hướng dẫn cho sinh viên phương pháp tự học một cách hợp lý, khoa học thì sẽ đem lại hiệu quả cao trong dạy học, tuy nhiên mức độ quan tâm, đầu tư vào công việc này còn ít, các hình thức dạy học của giảng viên chưa thực sự phong phú và kích thích được năng lực tự học của sinh viên. Trong các nguyên nhân cơ bản được xác định, thì nguyên nhân có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến kết quả chất lượng tự học là các sinh viên chưa có phương pháp tự học khoa học, đúng quy trình, chưa được hướng dẫn và kiểm tra một cách cụ thể, kỹ lưỡng về tự học; giảng viên chưa có sự hướng dẫn cụ thể cách thức tiếp cận vấn đề và giải quyết vấn đề trong quá trình tự học. Việc xác định được các nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng học tập bộ môn xuất phát từ chính bản thân người dạy và người học – đó chính là những cơ sở thực tiễn để chúng ta có những định hướng khoa học từ đó đề ra các giải pháp, quy trình phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm nâng cao chất lượng học tập môn học này cho sinh viên trường đại học, cao đẳng khu vực Tây Bắc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.        Bộ Giáo dục và Đào tạo, Các vấn đề đánh giá giáo dục, Dự án Việt – Bỉ "Hỗ trợ từ xa" 2000.

 

2.        Lê Khánh Bằng, Tổ chức phương pháp tự học cho sinh viên ĐHSPHN, Nxb Giáo dục, 1998.