RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIAO TIẾP VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG SƯ PHẠM LÀ YẾU TỐ CẦN THIẾT CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

 

ThS Nguyễn Thị Linh Huyền

 

          Trong công tác đào tạo của bất cứ nghề gì cũng phải quan tâm đến vấn đề rèn luyện nghiệp vụ, bồi dưỡng tay nghề cho người học. Sự thành thạo, nhuần nhuyễn tay nghề là một yếu tố vô cũng quan trọng, làm tăng hiệu quả hoạt động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, vì “trăm nghe không bằng tay quen”.

Nghề dạy học là một trong những nghề đào tạo ra con người có đức, có tài, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

        Khác với một số nghề, đối tượng giáo dục của nghề dạy học là những con người có thế giới nội tâm phong phú, đa dạng về tình cảm, trí tuệ và nhân cách. Sự độc đáo về đối tượng hoạt động đã làm cho nghề dạy học trở lên phức tạp nhưng cũng rất quang vinh. Đúng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý bậc nhất trong các nghề cao quý của xã hội xã hội chủ nghĩa. Các nghề trong chế độ ta đều sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần… Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất vì nó sáng tạo những con người sáng tạo”. Một GV giỏi không chỉ là người có chuyên môn tốt mà còn thành thạo những kĩ năng nghiệp vụ sư phạm NVSP. Thực tế cho thấy, đã không ít trường hợp SV tốt nghiệp loại giỏi, khá ở trường ta nhưng ra trường vẫn không đáp ứng được yêu cầu của công việc, chưa khẳng định được vị thế của mình trong nghề nghiệp và xã hội. Vì vậy, việc rèn luyện các kỹ năng sư phạm là một nội dung quan trọng  trong mục tiêu đào tạo của các trường SP. Tuy nhiên, trong phạm vi bài này tôi chỉ đề cập tới việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp và xử lý tình huống sư phạm cho SV ngành GDCT ở trường ĐH Tây Bắc.  

1.     Kỹ năng giao tiếp sư phạm

         Giao tiếp sư phạm (GTSP) là điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách người thầy giáo và học sinh. Trong quá trình giao tiếp này người thầy sẽ truyền thụ kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm của xã hội, bản thân....để học sinh tiếp thu và dần dần bồi dưỡng cho nhân cách phát triển tích cực. Bản thân người giáo viên khi trao đổi, chia sẻ với trò sẽ tự rút ra những phẩm chất cần bồi đắp thêm để hoàn thiện nhân cách, tâm lý cho chính mình. GTSP là quá trình tiếp xúc tâm lý, trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin, cảm xúc, nhận thức và tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, nhằm thiết lập nên những mối quan hệ giáo dục giữa các chủ thể liên quan đến quá trình giáo dục và giữa chủ thể giáo dục với đối tượng giáo dục để thực hiện mục đích giáo dục.     Các nguyên tắc trong giao tiếp sư phạm cần lưu ý là:

         Một là, nhân cách mẫu mực trong giao tiếp sư phạm: GV hàng ngày tiếp xúc với HS, mọi hành vi, cử chỉ, cách nói năng của thầy cô đều trực tiếp tác động vào HS. Do vậy, nhân cách của GV phải là nhân cách mẫu mực cho HS noi theo. Biểu hiện của nhân cách mẫu mực là: Sự mẫu mực về trang phục, hành vi cử chỉ, hành vi ngôn ngữ nói phải thống nhất; Thái độ phù hợp với các phản ứng hành vi; Sử dụng hành vi ngôn ngữ phong phú, phù hợp với tình huống, nội dung và đối tượng giao tiếp. Việc rèn luyện nhân cách mẫu mực tạo ra uy tín đảm bảo thành công trong giao tiếp sư phạm.

           Hai là, tôn trọng nhân cách trong giao tiếp:

          Trong giao tiếp coi học sinh là con người với đầy đủ các quyền được vui chơi, học tập, lao động, bình đẳng trong các mối quan hệ xã hội.
Tôn trọng  nhân cách học sinh, có thể quan sát các biểu hiện: Biết lắng nghe học sinh trình bày ý muốn, nguyện vọng của mình, không nên ngắt lời học sinh; Biết thể hiện các phản ứng biểu cảm của mình một cách chân thành với HS; Không dùng từ ngữ, câu xúc phạm đến nhân cách học sinh;Tránh những hành vi bộc phát, ngẫu nhiên khi tiếp xúc với học sinh;Trang phục gọn gàng, sạch sẽ,... Tôn trọng nhân cách học sinh chính là tôn trọng nhân cách giáo viên.

          Ba là, có thiện chí trong giao tiếp:Nhiệm vụ của giáo viên là truyền đạt tri thức cho học sinh, với thiện chí của mình giáo viên đem hết tài năng, trí lực ra hướng dẫn học sinh.Thiện ý của giáo viên rõ nét nhất trong đánh giá, nhận xét học sinh khi làm bài. Trong trường hợp đặc biệt, giáo viên “tạm ứng niềm tin” để học sinh phấn đấu vươn lên. Thiện ý còn thể hiện trong việc giao công việc của  lớp cho HS. Đôi lúc giáo viên còn phải làm “trọng tài” phân xử việc mất sách giáo khoa, mất tiền,…những trường hợp này đòi hỏi giáo viên phải có hành vi  ứng xử hướng thiện và hành thiện. Giúp học sinh nhận thức rằng khi giáo viên trách phạt, phê bình, phạt lao động… đều xuất phát từ thiện ý tốt của  thầy cô vì sự trưởng thành nhân cách học sinh.

          Bốn là, đồng cảm trong giao tiếp: Nguyên tắc này được hiểu là giáo viên biết đặt vị trí mình vào vị trí học sinh trong quá trình giao tiếp sư phạm. Nhờ có sự đồng cảm, giáo viên mới có biện pháp giảng dạy, giáo dcó hiệu quả. Đồng cảm là cơ sở hình thành mọi hành vi ứng xử nhân hậu, độ lượng, khoan dung đối với học sinh.Ngược với sự đồng cảm là cách giải quyết cứng nhắc theo nội quy mà áp dụng. Để thực hiện hành vi ứng xử với học sinh theo nguyên tắc này giáo viên phải quan tâm, tìm hiểu, nắm vững hoàn cảnh gia đình các em.
         Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm phân tích trên bao giờ cũng thống nhất, tác động qua lại biện chứng nhau. Những nguyên tắc này nhằm hoàn thiện nhân cách giáo viên góp phần xây dựng, phát triển nhân cách HS

2. Kỹ năng xử lý tình huống sư phạm

        Muốn trở thành một nhà sư phạm khéo léo, tinh tế trong ứng xử, thành công trong việc giáo dục học sinh, GV cần phải có hiểu biết và tôn trọng các nguyên tắc ứng xử sư phạm sau:

       Thứ nhất: Tìm để hiểu một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lý, tính cách, sở thích, thói quen…của từng em để có biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng.

         Thứ hai: Luôn giữ được sự bình tĩnh cần thiết trước mỗi tình huống sư phạm. Bình tĩnh để tìm hiểu một cách cặn kẽ, thấu đáo nguyên nhân của mỗi tình huống để có cách xử lý đúng đắn, hợp tình, hợp lý. “Hiểu người để dẫn đạo người”, đó là phương phâm cao quý của lao động sư phạm.

          Thứ ba: Luôn có ý thức tôn trọng học sinh, kể cả những khi học sinh có vi phạm, lỗi lầm với bản thân nhà giáo. Hãy biết tự kiềm chế để không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm học trò. Ở tuổi này, lòng tự tôn của các em rất cao, “chỉ một lời nói nhục mạ sẽ làm tan nát tâm hồn con trẻ” (Xukhômsinxki).

         Thứ tư: Luôn đặt mình vào địa vị của học sinh, vào hoàn cảnh của các em, cố gắng nhớ lại bản thân mình khi ở tuổi như các em để hiểu và thấu cảm. Hãy rút ngắn “khoảng cách thế hệ”, gần gũi và cảm thông chân thành, bao dung và độ lượng.

        Thứ năm: Luôn biết khích lệ, biểu dương các em kịp thời. Đối với học sinh, thầy cô giáo nên ca ngợi những ưu điểm của họ nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Học sinh nào cũng thích được thầy cô giáo biểu dương, vì thế, chúng ta không nên tiết kiệm lời khen của mình. Hãy khen ngợi những ưu điểm, sở trường của các em để các em cảm thấy giá trị của mình được nâng cao, có hứng thú học tập. Nhưng cũng cần chú ý, trong khi khen cũng không quên chỉ ra những thiếu sót của học sinh để các em khắc phục, không ngừng tiến bộ.

           Thứ sáu: Luôn thể hiện niềm tin vào sự hướng thiện của các em. Ngay cả khi các em mắc sai lầm, cũng phải tìm ra những ưu điểm, những mặt tích cực chứ không nên phê phán nặng nề. Đó chính là chỗ dựa, là nguồn khích lệ cho học sinh có động lực phát triển.Góp ý với học sinh về những thiếu sót cụ thể,  việc làm cụ thể, với một thái độ chân thành và giàu yêu thương. Tuyệt đối không nêu những nhận xét chung chung có tính chất quy chụp và xúc phạm HS.

          Thứ bảy: Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người thấy với học trò. Theo quy luật phản hồi tâm lý, tình cảm của thầy trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của trò. Dùng lòng nhân ái, đức vị tha giáo dục, cảm hóa học trò sẽ luôn đạt hiệu quả cao.Trong mỗi tình huống sư phạm, người GV cần phải bình tĩnh xem lại bản thân mình. “Nhân vô thập toàn”, nên hãy “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Nếu nhận ra sự thiếu sót, sai lầm của mình, hãy dũng cảm thừa nhận. Chắc chắn làm như thế, học sinh chẳng những không coi thường  thầy cô mà còn rất cảm phục. Việc vận dụng các quy tắc cơ bản nói trên vào việc xử lý các tình huống sư phạm là nghệ thuật của mỗi nhà giáo.

          Như vậy, việc rèn luyện các kỹ năng sư phạm nói chung và kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống sư phạm nói riêng cho sinh viên chuyên ngành GDCT ở trường ĐH Tây Bắc là yếu tố cần thiết để nâng cao năng lực sư phạm cho các em SV khi ra trường. Rất mong sự quan tâm của lãnh đạo các cấp đến việc đào tạo, rèn luyện  kỹ năng nghề nghiệp cho SV, cần kiên trì với mục tiêu lấy việc hình thành các kỹ năng của nghề làm đặc trưng nổi bật cho quá trình đào tạo.