ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

 

 

                                                                        ThS. NGUYỄN THỊ LINH HUYỀN

1. Đặt vấn đề

         Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương tăng cường giáo dục pháp luật trong nhà trường thông qua các chương trình môn học, giáo trình, tài liệu giảng dạy Pháp luật đảm bảo đúng tinh thần và nội dung của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Vì vậy,Pháp luật đại cương là môn học quan trọng trong chương trình đào tạo đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt trong đề cương chương trình chung và đã được đưa vào giảng dạy chính thức tại các trường trên cả nước. Do đó, đổi mới phương pháp trong dạy học môn Pháp luật đại cương theo tín chỉ là yêu cầu cần thiết ở các trường Đại học nói chung, Trường Đại học Tây Bắc nói riêng.

          Pháp luật đại cương là môn học cung cấp cho sinh viên (SV) những kiến thức cơ bản nhất về Nhà nước và pháp luật, các ngành Luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam và quốc tế. Bên cạnh trang bị những kiến thức cơ bản cho SV về pháp luật, môn học còn xây dựng ý thức “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”cho mỗi cá nhân. Trên cơ sở đó giúp họ hình thành ý thức và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài ra, môn Pháp luật đại cương còn giúp SV có điều kiện dễ tiếp thu kiến thức với các môn học khác có liên quan đến pháp luật, vì đây là những kiến thức có tính chất đại cương, nền tảng về Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Vì vậy, nâng cao hiệu quả dạy học môn Pháp luật đại cương cho SV nhà trường là nhiệm vụ rất quan trọng , bởi đây chính là mục tiêu mà người dạy cần hướng tới.

       2. Thực trạng dạy học môn Pháp luật đại cương theo hệ thống tín chỉ ở trường Đại học Tây Bắc

         Việc chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang tín chỉ là bước chuyển tất yếu khách quan của nhà trường và cả hệ thống giáo dục đào tạo đại học ở Việt Nam theo xu thế hội nhập quốc tế. Với chương trình đào tạo theo tín chỉ, mỗi SV cần ý thức rõ yếu tố tự học, tự nghiên cứu là quan trọng nhất, thời lượng chương trình sẽ bị rút ngắn (mặc dù chuyển từ đào tạo niên chế sang tín chỉ, song dung lượng tri thức ở từng môn học hầu như không đổi), thời gian còn lại để SV có thời gian tự học, tự nghiên cứu tài liệu. Song do hạn chế thời lượng lên lớp, GV không có quỹ thời gian trên lớp để tiếp xúc, hướng dẫn, trao đổi, giải đáp những vướng mắc khi SV gặp phải nên đây cũng là trở ngại trong dạy học môn Pháp luật đại cương.

   Về phía SV, chuyển đổi sang học theo tín chỉ là tạo sự chủ động cho SV. Trên thực tế, trong những năm gần đây  chất lượng đầu vào của SV còn thấp, số lượng SV Lào lại tăng lên cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là rào cản về ngôn ngữ đã ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả môn học chưa cao, một bộ phận không nhỏ SV nhà trường chưa thật sự chủ động trong học tập do nhiều nguyên nhân khác nhau. Các giảng viên đều đã vận dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học, trong đó có phương pháp dạy học truyền thống (phương pháp thuyết trình) và phương pháp dạy học tích cực (phương pháp đàm thoại, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp thảo luận nhóm, trực quan hình ảnh, hướng dẫn tự học,...). Tuy nhiên, việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực chưa đạt kết quả như mong muốn do thiếu sự hợp tác của sinh viên, cụ thể là phần lớn sinh viên nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của tự học, ít đọc tài liệu, lười tư duy, ngại phát biểu, học đối phó, một số không làm bài tập giảng viên giao, không quan tâm kết quả học tập. Với thực trạng đó dễ dẫn đến tình trạng giảng viên độc thoại, bài giảng đôi lúc còn thiếu sinh động, gây nhàm chán trong sinh viên. Thực tế này cho thấy, vai trò của GV dạy môn Pháp luật đại cương trong nhà trường là rất quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo hứng thú và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của SV.

3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Pháp luật đại cương ở trường Đại học Tây  Bắc

        Để nâng cao hiệu quả trong dạy học môn Pháp luật đại cương theo hệ thống tín chỉ ở trường Đại học Tây Bắc cần kết hợp đồng bộ nhiều gải pháp như sau:

Thứ nhất, giảng viên phải thường xuyên trau dồi giáo án, bài giảng, rèn luyện kỹ năng kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học; không ngừng nâng cao tri thức chuyên môn, bổ sung tri thức thực tiễn để vận dụng vào nội dung dạy học. Bởi vì “Nội dung quyết định hình thức”, chỉ khi nào giảng viên vững vàng về tri thức chuyên môn, tri thức thực tiễn và kỹ năng sư phạm thì việc đổi mới và áp dụng nhiều phương pháp dạy học sẽ dễ dàng hơn và đạt kết quả cao hơn. Mặt khác, giờ lên lớp, giảng viên cần gần gũi, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của sinh viên, tạo không khí thoải mái trong lớp học. Tuy nhiên, không nên quá dễ dãi, mà phải giữ vững kỹ cương, nề nếp.

Thứ hai, GV cần nắm vững những cơ sở khoa học của việc lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học thích hợp: Căn cứ vào mục tiêu bài dạy, căn cứ vào nội dung bài dạy, căn cứ vào các giai đoạn của quá trình nhận thức, căn cứ vào điều kiện vật chất của việc dạy học (Tài liệu, phương tiện dạy học, số lượng SV, thời gian, địa điểm...) và đặc biệt là căn cứ vào đối tượng SV để dạy học sát với đối tượng, bảo đảm tính vừa sức. Điều này đòi hỏi GV phải nắm vững trình độ, năng lực của SV về kiến thức, kỹ năng, đặc điểm tư duy, tâm –sinh lí lứa tuổi, về vốn kiến thức thực tế tích lũy được qua cuộc sống, thói quen trong học tập... Chỉ trên cơ sở đó, GV mới dự kiến sử dụng  Phương pháp dạy học nào để kích thích được nhu cầu và hứng thú khám phá, tiếp nhận tri thức của SV.

Thứ ba, nhận thức đúng về vai trò và sử dụng đúng đắn các hệ thống phương pháp trong dạy học Pháp luật đại cương như áp dụng các PPDH truyền thống (PP thuyết trình, PP vấn đáp) theo hướng đổi mới và áp dụng các PPDH tích cực khác ( PP thảo luận nhóm, PP nêu vấn đề, PP dự án...): GV tiếp tục sử dụng phương pháp thuyết trình vì đặc thù của các môn học mang tính giáo dục, nội dung trừu tượng đòi hỏi có sự phân tích, lý giải của giảng viên. Phương pháp thuyết trình là phương pháp tối ưu để giảng viên tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lý tưởng cách mạng, tính nhân văn, nhân đạo cho sinh viên. Tuy nhiên, phương pháp thuyết trình cần được đổi mới bằng cách kết hợp chặt chẽ và linh hoạt với phương pháp vấn đáp và phương pháp nêu vấn đề, và phải tăng cường hướng dẫn sinh viên tự học để có thể chuyển từ việc giảng viên thuyết trình sang kết hợp cả giảng viên và sinh viên thuyết trình. SV thuyết trình những nội dung sẵn có trong giáo trình, hoặc về các chủ đề cần nhận thức và giải quyết trong thực tiễn. Tuy nhiên, để phát huy vai trò này của sinh viên, giảng viên phải có kế hoạch rõ ràng, giao nhiệm vụ và hướng dẫn sinh viên chuẩn bị trước theo từng nội dung, từng chủ đề, khuyến khích sinh viên xây dựng trên Power Point. Bằng phương pháp này buộc sinh viên vừa phải đọc tài liệu bộ môn, vừa sử dụng được công nghệ điện tử trong học tập, đồng thời qua đó mà rèn luyện được các kỹ năng nghiên cứu, tự học, trình bày lôgic, nói trước tập thể,...  

 GV có thể tăng cường sử dụng phương pháp vấn đáp - đàm thoại. Đây là phương pháp có tác dụng lớn trong việc kích thích tư duy, sáng tạo của sinh viên. Phương pháp này phải được sử dụng kết hợp chặt chẽ, linh hoạt với phương pháp thuyết trình, đặc biệt là thuyết trình của sinh viên. Sau khi sinh viên kết thúc nội dung bài thuyết trình, giảng viên cần phải có những câu hỏi chất vấn, hoặc khuyến khích các sinh viên khác đặt câu hỏi chất vấn để yêu cầu giải thích, làm rõ nội dung. Giảng viên là người hỗ trợ, phân tích, lý giải cuối cùng để giúp sinh viên làm rõ và đưa ra khẳng định cuối cùng vấn đề nhận thức đó. Hoặc, thành lập các nhóm và tổ chức, hướng dẫn cho sinh viên tự nghiên cứu từng nội dung trong giáo trình (theo tiến độ giảng dạy), yêu cầu sinh viên đặt ra những câu hỏi để hỏi các nhóm bạn, khuyến khích xây dựng các câu hỏi khó mà nội dung trả lời là kết quả của tư duy hay vận dụng trong thực tiễn. Mỗi câu hỏi được đưa ra thì người nêu câu hỏi phải biết nội dung trả lời để xác định câu trả lời của bạn là đúng hay sai. Tuy nhiên, giảng viên phải theo sát để đính chính các câu hỏi cũng như nội dung trả lời của sinh viên để đảm bảo tính chính xác, vì có những câu hỏi sinh viên nêu ra mà người nghe không thể hiểu hoặc đáp án không đúng. Để thực hiện phương pháp này có hiệu quả giảng viên cần tăng cường tổ chức và hướng dẫn cho sinh viên tự nghiên cứu trước khi lên lớp. Giờ lên lớp là lúc thực hiện kế hoạch và nhận xét, đánh giá kết quả. Bằng phương thức này, sinh viên sẽ nắm được kiến thức cơ bản từ giáo trình nhờ đọc tài liệu để đặt câu hỏi, vừa rèn luyện được tư duy và kỹ năng nói thông qua trả lời các câu hỏi.  

Thứ tư, phải tăng cường hiện thực hóa nội dung tri thức giáo trình để làm sinh động nội dung bài giảng, thu hút sự chú ý của sinh viên, tức là phải gắn lý luận khoa học với thực tiễn sinh động để giải thích, chứng minh, phải tăng cường đưa các vấn đề thực tiễn về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng vào từng nội dung dạy học. Để thực hiện giải pháp này, trước hết đòi hỏi giảng viên phải không ngừng bổ sung tri thức thực tiễn, thu thập các thông tin thực tiễn có liên quan đến bộ môn của mình để vận dụng, dẫn dắt sinh viên nhận thức và giải quyết các vấn đề đó. Thực hiện tốt phương pháp này sẽ làm cho bài giảng trở nên sinh động, sinh viên không bị nhàm chán, điều quan trọng là có tác dụng lớn trong việc nâng cao nhận thức đời sống thực tiễn cho sinh viên, kích thích tư duy của sinh viên trong việc nhận thức và giải thích các vấn đề thực tiễn đó.

Thứ năm, thành lập nhóm học tập ngay từ buổi đầu dạy học bộ môn và duy trì đến hết môn học. Mỗi nhóm chỉ 3 - 4 sinh viên và có nhóm trưởng (nếu có sinh viên mong muốn làm việc một mình thì khuyến khích họ). Giảng viên phải hướng dẫn cách thức tổ chức học nhóm, phân công nhiệm vụ và phải có biện pháp kiểm tra chặt chẽ quá trình học tập của các nhóm ngay tại lớp và tự học ở nhà. Không nên thành lập nhóm học tập quá đông vì sẽ dẫn đến hiện tượng nhiều sinh viên không tham gia làm việc nhóm nhưng lại được hưởng điểm như những sinh viên tích cực khác, điều này dẫn đến sự mất công bằng trong học tập.

 

Thứ sáu, đa dạng hóa hình thức lấy điểm kiểm tra định kỳ bằng cách kết hợp cả điểm kiểm tra tự luận với điểm vấn đáp, điểm thuyết trình kết quả tự học, học nhóm... tại lớp. Đồng thời, có chế độ thưởng và phạt điểm để vừa khuyến khích vừa buộc sinh viên phải học tập.