GIỮ VỮNG ĐỘC LẬP DÂN TỘC- QUAN ĐIỂM QUỐC TẾ CƠ BẢN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

 

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, là tất yếu khách quan của lịch sử. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang, thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Câu nói “không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ C Minh đã trở thành chân lý, là lẽ sống của dân tộc Việt Nam.

Hơn mười năm sau khi hoà bình thống nhất đất nước, tạiĐại hội lần thứ VI (12/1986) Đảng ta đã mạnh dạn nhìn thẳng sự thật, nói rõ sự thật và công bố đường lối đổi mới đất nước, thể hiện sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế nước ta. Thế giới sang thế kỷ XXI có những chuyển biến phức tạp, nhiều xu hướng đan xen lẫn nhau. Trong đó chủ nghĩa tư bản phát triển, đạt được thành tựu to lớn trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nhu cầu phát triển buộc các quốc gia phải hợp tác nhưng đồng thời cạnh tranh quyết liệt. Do đó đổi mới trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác định là gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng cũng có những thuận lợi cơ bản. Trong hoàn cảnh mới, Đảng đã phân tích tình hình, nắm vững quan điểm, đường lối,sự mềm dẻo, linh hoạt và sáng tạo trong hoạt động đối ngoại tiếp tục được phát huy. Nếu như trước đây ông cha ta lấy “dĩ hoà vi quý” thì nay Đảng ta kế thừa và nêu cao quan điểm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới”. Có thể nói quan điểm quốc tế của Đảng trong thời kì đổi mới là đúng đắn và phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử. Trong đó “bảo vệ độc lập, thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội” không chỉ là một trong những quan điểm cơ bản của đường lối đối ngoại mà còn là mục tiêu và lí tưởng phấn đấu thành hiện thực của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Độc lập, thống nhất là nguyện vọng và quyền lợi thiêng liêng của mọi quốc gia, dân tộc. Nếu tôn trọng quyền lợi này, mọi mâu thuẫn và tranh chấp sẽ được giải quyết. Trong hiến chương của Liên hợp quốc có hiệu lực từ ngày 4/10/1945 quy định Liên hợp quốc sẽ hoạt động theo nguyên tắc tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của các nước,do đó một trong những mục đích cao nhất của Liên hợp quốc là thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết. Điều này chứng tỏ lịch sử loài người đã tiến thêm một bước mới quan trọng trong quan hệ ngoại giao. Trong và sau cuộc chiến tranh lạnh, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực ra đời nhằm liên kết các nước lại với nhau vì một mục đích nhất định. Song khi xu thế đối đầu dịu lại và dần chuyển sang xu thế đối thoại và hợp tác thì vấn đề độc lập, thống nhất chịu những tác động không nhỏ.

Đối với Việt Nam, độc lập và thống nhất đất nước gắn liền với con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể tách rời, là nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Quan điểm quốc tế của Đảng là sự kế thừa, tiếp nối quan điểm quốc tế đã có từ trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trong đó độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu cơ bản và xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Vấn đề đoàn kết quốc tế là nguyên tắc chiến lược đưa Việt Nam hội nhập với thế giới. Mặt trận ngoại giao và mặt trận chính trị ngày càng phát huy vai trò to lớn của mình trên trường quốc tế, trở thành mối quan tâm lớn của xã hội. Trong thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn phát huy tinh thần sáng tạo, tôn trọng các nguyên tắc, luật pháp quốc tế dựa trên tinh thần độc lập, tự chủ nhằm giữ vững thế chủ động.

Công cuộc đổi mới được tiến hành trên mọi lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế được xác định là trọng tâm. Để giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghiã xã hội chúng ta phải phát triển kinh tế, xây dựng được một nền kinh tế vững mạnh và ngược lại độc lập, thống nhất là yếu tố bảo đảm, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế mà không bị phụ thuộc, chịu sự chi phối của các nước lớn. Hiện nay nhiều nước châu Phi theo con đường tư bản chủ nghĩa, được sự giúp đỡ của nhiều nước tư bản nhưng vẫn chưa thực sự phát triển, đang phải đối mặt với đói nghèo, bệnh tật, sức ép của việc tăng dân số và ô nhiễm môi trường. Vấn đề đặt ra cho các nước đang phát triển là phải có đường lối đối ngoại đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước.

Thế giới đang biến đổi theo những hướng hết sức phức tạp. Xu thế hợp tác và phát triển buộc các quốc gia phải xem xét lại chiến lược ngoại giao của mình, có những điều chỉnh cho phù hợp. Việt Nam đã và đang phát huy thế mạnh để tham gia vào những sân chơi bình đẳng. Nhưng trước hết phải hiểu rõ đối tác, nắm vững luật pháp quốc tế để nắm bắt được những thuận lợi cho công cuộc đổi mới.

Xu thế phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới đặt Việt Nam trước rất nhiều khó khăn và thách thức. Do đó phát triển nhanh và bền vững là mục tiêu quan trọng mà nếu như không dựa vào nội lực Việt Nam khó có thể đạt được điều đó. Nội lực và ngoại lực là hai yếu tố thúc đẩy sự phát triển. Nhưng không biết phát huy sức mạnh của độc lập, thống nhất, của tinh thần yêu nước, của truyền thống văn hoá Việt Nam thì đổi mới sẽ càng khó khăn hơn. Vì vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Bước sang thế kỉ XXI, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo và hoà bình khu vực bị đe doạ. Bên cạnh đó con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của các nước đang bị các thế lực thù địch ráo riết phá hoại. Trước tình hình đó Việt Nam kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đứng trên lập trường của chính nghĩa, của luật pháp quốc tế và của một dân tộc luôn tôn trọng hoà bình, tiến bộ của nhân loại.

Ngày nay độc lập, thống nhất vẫn là vấn đề nóng bỏng của nhiều dân tộc trên thế giới. Nó đã, đang và sẽ tác động to lớn đến sự phát triển của nhân loại. Văn minh nhân loại càng đạt đến trình độ cao thì vấn đề này càng quan trọng. Đường lối đối ngoại của Đảng ta trong thời kì đổi mới vừa là sự kế thừa quan điểm quốc tế trong thời kì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng, đồng thời là sự vận dụng sáng tạo quan điểm, học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

 Th.S Lại Trang Huyền

LỊCH SỬ TÊN GỌI CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

 

     Mỗi chặng đường lịch sử của dân tộc, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có những hình thức đấu tranh và những nhiệm vụ đặt lên hàng đầu khác nhau. Với mỗi giai đoạn, tên gọi của Đoàn đã được thay đổi.

1.     Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương

Tháng 5/1935, Mặt trận Nhân dân Pháp được thành lập và sau đó giành được đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 6/1936. Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở Pháp. Căn cứ diễn biến tình hình thế giới và trong nước, tháng 7/1936, Hội nghị T.Ư Đảng đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong thời kỳ mới.

Nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta lúc này là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng chủ trương lập Mặt trận Nhân dân Phản đế sau đổi thành mặt trận Thống nhất Dân chủ. Hội nghị BCH T.Ư Đảng họp tháng 7/1936 đã ra những quyết định quan trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động TN. Theo đó, trong thời kỳ cách mạng từ giữa năm 1936 đến mùa thu năm 1939, Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương mang tên Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương phù hợp với nhiệm vụ chính trị qua các nghị quyết của Đảng như trên đã nêu. Đoàn Thanh niên Dân chủ hoạt động công khai, có cơ quan báo chí riêng, đó là các tờ “Bạn dân”, “Thế giới”, “Mới” phát hành ở cả ba miền đất nước. Đoàn đã xây dựng đội ngũ của mình gồm hàng vạn đoàn viên, đấu tranh kiên cường dưới ngọn cờ của Đảng, tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương (1931 – 1935).

Ngoài việc phát hành báo, tổ chức Đoàn còn lập các Hội đọc sách, Hội văn nghệ, Hội thể thao, đặc biệt là hình thành các nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Nhiều tác phẩm chính trị, văn học của C.Mác. F.Angghen, V.I.Lênin, Goocki… như: “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, “Tư bản”, “Nhà nước là gì?”, “Người mẹ”… cũng như các cuốn sách do các chiến sĩ cộng sản Việt Nam viết như: “Vấn đề dân cầy” của Qua Ninh và Vân Đình, “Mác xít phổ thông” của Hải Triều và Thơ Tố Hữu được đông đảo đoàn viên, thanh niên hân hoan đón đọc.

Được sự quan tâm của các Xứ ủy Đảng, phong trào TN và tổ chức Đoàn được củng cố, phát triển sâu rộng, có hệ thống từ cơ sở lên đến tỉnh, thành và xứ.Tuy nhiên, đến tháng 9/1939, đại chiến thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Thực dân Pháp thẳng tay thi hành chính sách đàn áp, khủng bố phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và TN ta. Tổ chức Đoàn phải trở lại hoạt động bí mật.

     2. Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương

Tháng 11/1939, T.Ư Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định). NQ Hội nghị nhấn mạnh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của CMGP dân tộc, là nhiệm vụ hàng đầu của CM Đông Dương. Hội nghị chủ trương lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp và dân tộc ở Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của chúng.

Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương mang tên mới là Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương tiếp nối sự nghiệp vẻ vang của các tổ chức TNCS và TNDC trước đây. Đoàn đã xây dựng được cơ sở ở nông thôn, trong nhà máy và các trường học. Trong tình hình mới, tổ chức Đoàn hoạt động bí mật và được tổ chức chặt chẽ. Những ĐVTN Dân chủ được thử thách, lựa chọn và chuyển thành ĐVTN Phản đế, các hội viên TN trong các tổ chức TN phổ thông được giao những công tác thích hợp để thử thách bồi dưỡng.

Tháng 9/1940, Phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Từ đây nhân dân Việt Nam một cổ hai tròng, bị hai kẻ thù là phát xít Nhật và thực dân Pháp cùng thống trị. Nhưng nhân dân Việt Nam và thế hệ thanh niên nước ta thời kỳ này không chịu khuất phục: Tháng 9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra; tháng 11/1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ với sự xuất hiện lần đầu tiên lá Cờ đỏ Sao Vàng; tháng 1/1941, nổ ra cuộc binh biến ở đồn Chợ Rạng và đồn Đô Lương.

Các tổ chức Đoàn TN Dân chủ sau đó là Đoàn Thanh niên Phản đế đã vận động thanh niên đi đầu trong các cuộc đấu tranh và khởi nghĩa vũ trang từng phần, báo hiệu một thời kỳ mới: chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

     3. Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam

Tháng 11/1940, Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 7 họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) trong đó có phần nói về: “Vấn đề tổ chức các đoàn thể quần chúng”. Nghị quyết hội nghị ghi: “Vì chính sách của Đảng ta hiện tại là chính sách cứu quốc cho nên mục đích các hội quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu... Việt Nam thanh niên Cứu quốc từ nay là đoàn thể của tất thảy thanh niên từ 18 đến 22 tuổi muốn tranh đấu đánh Pháp, đuổi Nhật”.

Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc bí mật về nước để cùng Ban chấp hành TW Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của TƯ Đảng họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc - đại diện của Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì. Hội nghị đã nêu một quyết tâm sắt đá: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Để tập hợp động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi phát xít Pháp - Nhật, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh (Gọi tắt là Việt Minh) và các Hội cứu quốc, trong đó có: Đoàn Thanh niên Cứu quốc - Việt Nam - một tổ chức của những thanh niên yêu nước tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên do Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn ái Quốc sáng lập và lãnh đạo trước đó.

Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới. Hội nghị đã nêu rõ vai trò, trách nhiệm của Đoàn TN Cứu quốc trong cao trào đấu tranh của giải phóng dân tộc. Trong suốt chặng đường dài từ 1941 – 1956, Đoàn TNCQ Việt Nam đã đóng góp to lớn, kể cả hy sinh xương máu, cùng dân tộc vùng dậy trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên Nhà nước Dân chủ, cộng hòa - Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á. Tháng 2/1950, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam được triệu tập tại căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Đây là Đại hội đại biểu toàn quốc đầu tiên của Đoàn, gồm trên 400 đại biểu của ba miền đất nước. Sau đó, Đoàn đã vận động đoàn viên, TN đi tiếp chặng đường hơn 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh góp phần xứng đáng làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu, giải phóng hoàn toàn miền Bắc (7/1954), bắt tay xây dựng hậu phương lớn XHCN ở miền Bắc, chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam.

     4 - Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam

Tháng 7/1954, hòa bình đợc lập lại trên miền Bắc, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ mới, Bộ Chính trị T.Ư Đảng trong phiên họp tháng 9/1954 đã chủ trơng đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam thành một tổ chức thực sự có tác dụng là lực lượng dự trữ và cánh tay của Đảng.

Quyết nghị có đoạn viết: “Đảng ta là Đảng Lao động Việt Nam. Việc Đoàn TNCQ Việt Nam đổi tên thành Đoàn TNLĐ Việt Nam sẽ làm cho thanh niên thêm phấn khởi, thêm gắn bó với Đảng và do đó càng quyết tâm phấn đấu đến cùng dới ngọn cờ của Đảng”.

Trong “Quyết nghị về đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và kế hoạch xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam” (Ban Bí th T.Ư - ngày 19/10/1955) đã nêu rõ tính chất, nhiệm vụ, vấn đề tổ chức và kế hoạch xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam.

Về tính chất của Đoàn TNLĐ Việt Nam, Quyết nghị nêu: “Đoàn TNLĐ Việt Nam là một tổ chức quần chúng tiên tiến của TN Việt Nam, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Đoàn TNLĐ Việt Nam là trờng học của chủ nghĩa Mác-Lênin của thanh niên, là nơi bồi dưỡng lực lượng dự trữ của Đảng, là cánh tay thực hiện mọi chính sách của Đảng”. Quyết nghị của Đảng đã vạch rõ nhiệm vụ của Đoàn trong thời kỳ mới và đề ra kế hoạch xây dựng Đoàn là:

1. Đảm bảo tính chất tiên tiến của Đoàn… Không kết nạp ồ ạt và tập thể. Nơi nào chưa có đủ điều kiện đổi tên Đoàn thì chưa đổi.

2. Làm cho ĐVTN có một nhận thức đúng đắn về Đoàn TNLĐ Việt Nam. Việc kết nạp đoàn viên hoặc đổi tên Đoàn phải trên cơ sở tự nguyện, tự giác của TN.

3. Kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện những nhiệm vụ công tác chính trớc mắt do Đảng đề ra… Việc xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam cần làm một cách có lãnh đạo và có kế hoạch cụ thể cho từng vùng…”.

Quyết nghị nêu kết luận: “Việc đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam là một việc rất quan trọng có ảnh hưởng đến việc xây dựng một phong trào thanh niên lớn mạnh trong toàn quốc, đến việc phát triển cơ sở Đảng trong quần chúng lao động và việc hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Các cấp ủy Đảng cần nắm vững đờng lối vận động thanh niên của Đảng, trực tiếp lãnh đạo thực hiện nghị quyết này”.

     5 - Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh

Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, người sáng lập rèn luyện Đoàn ta qua đời. Toàn thể cán bộ, ĐVTN và đội viên thiếu niên, nhi đồng nước ta vĩnh biệt Người với nỗi xót thương vô hạn. Bác Hồ và Đảng đã coi sự trưởng thành của lớp thanh niên nước ta là một trong những thành quả vĩ đại của cách mạng, có quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau.

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ và theo đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam, nhân dịp kỉ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng (3/2/1930 – 3/2/1970), BCH T.Ư Đảng đã ra Nghị quyết cho Đoàn Thanh niên và đội thiếu niên, Đội Nhi đồng được mang tên Bác.

Nghị quyết nêu rõ: “… Thể theo nguyện vọng của thế hệ trẻ nước ta và đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam” BCH T.Ư Đảng Lao động Việt Nam quyết định:

- Đoàn TNLĐ Việt Nam nay là Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh

- Đội TNTP Việt Nam nay là Đội TNTP Hồ Chí Minh

- Đội Nhi đồng Việt Nam nay là Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh

Tổ chức Đoàn và tổ chức đội được mang tên Bác là vinh dự lớn lao, đồng thời là trách nhiệm nặng nề trước Tổ quốc và nhân dân. Đoàn ta được mang tên Bác Hồ càng làm rõ mục đích và tính chất của Đoàn là đội tiên phong chiến đấu của TN, đi đầu phấn đấu cho lý tưởng cách mạng cao cả của Đảng và Bác Hồ là độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

     6. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Tháng 4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Ngày 26/3/1976, Lễ kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đoàn đã được tổ chức trọng thể tại Hà Nội. Tại Lễ kỷ niệm này, tổ chức Đoàn trong cả nước đã thống nhất mang tên chung là Đoàn Thanh Niên Lao động Hồ Chí Minh.

Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến 20/12/1976 tại Thủ đô Hà Nội đã quyết định đổi tên đảng Lao động Việt Nam (2-1951) thành Đảng Cộng Sản Việt Nam và thể theo nguyện vọng của cán bộ, ĐVTN cả nước, Đại hội Đảng lần thứ IV đã quyết định đổi tên Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh (1970) thành: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Đại hội Đảng chỉ rõ nhiệm vụ của Đoàn và phong trào thanh niên trong giai đoạn mới là: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phải được xây dựng và củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là trường học CSCN của lớp người trẻ tuổi, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng”.Được mang tên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là vinh dự và tự hào lớn của toàn thể cán bộ đoàn viên nước ta.


 

Người sưu tầm: ĐỖ HUYỀN TRANG

HỘI NGHỊ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO HỌC SINH DỰ BỊ NĂM HỌC 2014 – 2015

 

Trong bối cảnh đất nước và trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đòi hỏi ngành Giáo dục phải giải được bài toán nâng cao chất lượng giáo dục ngày càng đáp ứng cho thị trường nguồn nhân lực có chất lượng cao. Vừa qua, ngày 31-1-2015 dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Bao - bí thư Đảng ủy, hiệu trưởng trường Đại học Tây Bắc “HỘI NGHỊ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO HỌC SINH DỰ BỊ” đã được tiến hành nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên dự bị kế cận của trường.

Công tác đào tạo dự bị luôn được Ban Giám hiệu và các phòng ban Trường Đại học Tây Bắc quan tâm và đặc biệt chú trọng. Đây không những là đào tạo đội ngũ sinh viên dự bị cho trường mà còn là đào tạo nhân lực có chất lượng để đáp ứng nhu cầu xã hội trong tương lai. Đã có rất nhiều tham luận của các thầy cô trực tiếp giảng dạy và cả những nhà quản lý được trình bày, tiêu biểu như tham luận của Th.S Mai Anh Đức – phó trưởng khoa Toán - Lý - Tin rất chi tiết và gắn liền với thực tiễn sinh viên dự bị của trường. Một số thầy cô trực tiếp giảng dạy nêu ý kiến về những điều chưa phù hợp trong nội dung chương trình đào tạo. Có ý kiến cho rằng cần phải xây dựng một chương trình đào tạo riêng, thành lập Khoa Dự bị của Trường Đại học Tây Bắc.

Nhiều vấn đề đã được đưa ra thảo luận sôi nổi nhưng vấn đề nổi bật nhất vẫn là thực trạng của sinh viên dự bị chưa thực sự chuyên tâm trong học tập. Một số em có tâm lý muốn học lại ở một nơi mới, có em do hoàn cảnh gia đình nên không muốn tiếp tục học. Nhưng cũng có một bộ phận do mới tiếp xúc với môi trường mới lại không được sự kèm cặp sát sao của gia đình nên đã có lối sống buông thả, mải chơi, không chú ý tới học hành, thậm chí còn lôi kéo bạn bè chơi bời, bỏ học theo.

Để giải quyết tình trạng trên có ý kiến cho rằng cần phải tổ chức cho các em vào ở tập trung trong ký túc xá, vừa là cơ hội cho các em hòa nhập môi trường mới đồng thời dễ dàng quản lý các em hơn. Thêm vào đó cần thành lập một khoa dự bị riêng biệt với những giáo viên chủ nhiệm có kinh nghiệm sẽ là người giữ vị trí quan trọng là cấu nối giữa các em với nhà trường, là người đưa ra những định hướng cho các em lựa chọn vì bản thân một số em cũng chưa xác định được tương lai nên học ngành gì, đặc thù đào tạo của mỗi ngành ra sao,...

Hội nghị đã diễn ra thành công tốt đẹp, đó là cơ hội để các nhà quản lý và các giáo viên trực tiếp giảng dạy có cơ hội cùng đánh giá những ưu điểm và hạn chế của chương trình đào tạo cũng như công tác quản lý các em học sinh dự bị để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo học sinh dự bị trường Đại học Tây Bắc.

 

 

 Th.S Nguyễn Hải Minh

MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

 

Để góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ tư duy lý luận và bản lĩnh chính trị vững vàng đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của quá trình đổi mới đất nước thì việc đổi mới cả nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin nói chung, môn CNXHKH nói riêng  được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Trong khuôn khổ bài viết này tôi muốn đề cập đến một vài khía cạnh trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy phần CNXHKH với mong muốn được cùng trao đổi với các đồng nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng giảng dậy môn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác -Lênin cũng như môn CNXHKH.

          Thực trạng việc giảng dạy môn CNXHKH hiện nay: Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy đang là một trong những hoạt động chính của Nhà trường nói chung và của khoa lý luận chính trị nói riêng, đang thu hút được sự tham gia tích cực của đội ngũ giảng viên Nhà trường cũng như của khoa. Tình hình giảng dạy và học tập trong thời gian qua đã có những chuyển động tích cực. Đã có rất nhiều giảng viên mạnh dạn vận dụng những phương pháp mới vào quá trình giảng dạy các môn lý luận trong đó có môn CNXHKH, phát huy tính tích cực, chủ động của người học, bài giảng đã phần nào bớt tính chất truyền đạt một chiều, thụ động.

          1-Thực tiễn cho thấy việc dậy các môn khoa học Mác –Lênin trong thời gian qua gặp không ít những khó khăn, phức tạp, nhất là việc gắn lý luận với thực tiễn đất nước và thời đại. Song môn CNXHKH thường là môn khó khăn và phức tạp nhất.

          Khi hệ thống XHCN trên thế giới lâm vào tình trạng khủng khoảng, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức ngày càng phát triển thì những biểu hiện giao động, hoài nghi, phủ nhận CNXH và CNXHKH ngày càng nhiều và phức tạp hơn.

          Chúng tôi là những giảng viên môn CNXHKH trong quá trình giảng dạy các thông tin giảng viên hiện có để phục vụ cho giảng dậy môn học này thường lạc hậu, trùng lặp, một chiều, những thông tin mới cập nhật còn chậm, phương tiện hỗ trợ giảng dạy sử dụng chưa nhiều, còn nghèo nàn, sử dụng phấn bảng, thuyết trình vào giảng dạy vẫn là chủ yếu. Cách thức để chuyển tải  nội dung môn học chưa phát huy được tính độc lập sáng tạo của người học, dẫn đến nhiều buổi học trở nên đơn điệu, nhàm chán, cả người dậy và người học đều không hứng thú mặc dù mấy năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy đã được các giảng viên chú ý.   

          2- Đổi mới phương pháp giảng dạy

 Yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy: Phương pháp giảng dạy là hệ thống cách thức hoạt động của thầy và trò nhằm chuyển tải và tiếp nhận nội dung của môn học. Phương pháp giảng dạy môn học CNXHKH tất yếu cũng phải tuân thủ những yêu cầu chung của phương pháp giảng dạy các môn khoa học khác. Phương pháp giảng dạy CNXHKH bao gồm hệ thống những phương pháp  được cụ thể hoá qua lời nói, chữ viết và các phương tiện dạy học khác .

Căn cứ vào lượng thông tin tri thức cần truyển tải trong quá trình dạy học có thể phân chia bằng phương pháp truyền thông tin, phương pháp củng cố và làm tăng tri thức so với thông tin gốc. Việc đổi mới phương pháp dạy môn học này cũng dựa trên cơ sở lý luận dậy học mới là quá trình thầy - trò cùng tham gia, có kết hợp các phương tiện kỹ thuật, người dạy có thể đánh giá được kết quả học tập của người học ngay trong quá trình dạy học.

          Tuy nhiên, khác nhiều với môn học của các khoa học chuyên ngành, môn CNXHKH không chỉ tác động vào tri thức, tư duy mà còn tác động vào tình cảm, tâm hồn, lý tưởng, phẩm chất đạo đức và niềm tin cho người học. Do vậy việc giảng dạy môn CNXHKH cần phải thấy rõ tính đặc thù của nó như:

          Thứ nhất: Giảng dạy môn CNXHKH không thể bằng phương pháptrực quan, thực nghiệm và cũng không thể thuyết phục bằng các thao tác chứng minh toán học hay đối chiếu trong phòng thí nghiệm.

          Thứ hai: Mối quan hệgiữa người dạy và người học đối với môn CNXHKH trên nguyên tắc thông tin hai chiều không thể áp đặt như định lý bất di bất dịch của khoa học tự nhiên. Tách rời lý luận với thực tiễn cuộc sống sẽ không đủ sức thuyết phục đối với người học.

          Thứ ba: CNXHKH với tư cách là một trong ba bộ phận hợp thành cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lênin lấy triết học, kinh tế chính trị học Mác –Lênin làm cơ sở phương pháp luận. Do vậy ngoài kiến thức chuyên ngành sâu sắc và thấu đáo, người dạy cần phải có kiến thức liên ngành, kiến thức triết học, kinh tế chính trị học và phải sử dụng chúng một cách hợp lý.

          Sử dụng phương pháp giảng dậy tích cực: Trong thời đại ngày nay khi quan niệm về giáo dục có thay đổi, đặc biệt là việc xác định trung tâm của giảng dạy là người học thì việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực trở thành một yêu cầu thiết yếu.

          Song vấn đề đặt ra là làm thế nào để truyền đạt được một khối lượng lớn kiến thức cho học viên vẫn huy động được sự tham gia của học viên vào giờ học đồng thời nâng cao kỹ năng tổng hợp, phân tích và phát huy sáng tạo của học viên mà giảng viên không cần thuyết trình nhiều.

          Để giải quyết được vấn đề này, giảng viên có thể sử dụng đa phương pháp trong một bài giảng. Mỗi phương pháp giảng dạy đều có những ưu điểm, và hạn chế nhất định, người giảng viên phải biết chắt lọc phương pháp nào giảng dạy phù hợp với từng phần, nội dung bài giảng để hỗ trợ cho phương pháp thuyết trình. Trong một bài giảng, giảng viên có rất nhiều phương pháp để cân nhắc, song không phải phương pháp lựa chọn nào cũng đều phù hợp. Nếu chúng ta lựa chon phương pháp không phù hợp, nội dung bài giảng sẽ không chuyển tải đầy đủ và đúng yêu cầu chương trình học tập đề ra.

          * Đối với phương pháp đàm thoại (phương pháp nêu và giải quyết vấn đề). Phương pháp này đáp ứng xu thế tích cực hoá hoạt động cả người học, lấy hoạt động của người học làm trung tâm, khắc phục sự nhàm chán, tẻ nhạt của phương pháp thuyết trình. Đàm thoại có thể diễn ra ở nhiều cấp độ, ở cấp độ thấp: là thầy hỏi trò đáp không có tranh luận bổ khuyết gì thêm (Đó lànhững câu hỏi mang tính củng cố kiến thức cũ những câu hỏi mà trả lời hiển nhiên trong thực tế, không phải động não nhiều). Ở cấp độ cao hơn: là câuhỏi tạo tình huốngcó vấn đề, qua đó người dạy, người học có sự toạ đàm, trao đổi, tranh luận để đi đến giải quyết vấn đề. Để có câu trả lời đúng đòi hỏi người học phải suy nghĩ cao độ, đồng thời người dậy phải có sự chuẩn bị chu đáo trong việc tạo ra tình huống có vấn đề.

          * Phương pháp làm việc theo nhóm: phương pháp làm việc theonhóm cũng tỏ ra có hiệu quả cho các sinh viên đã có kinh nghiệm và vốn sống nhất định đặc biệt sinh viên hệ vừa học vừa làm. Mặc dù phương pháp này có mặt hạn chế là phải cần rất nhiều thời gian để chia nhóm, ra nhiệm vụ, trình bày kết quả, tổng kết của GV và như vậy có nguy cơ “cháy giáo án” rất có thể xảy ra nếu như không thận trọng, linh hoạt. Nhưng có thể nói đây là phương pháp có tác dụng kích thích nhiều sinh viên tham gia, mỗi người đều có cơ hội làm việc tích cực, tính tích cực của người học được nâng lên.

          Nhận thức sâu sắc và khoa học về các phương pháp giảng dạy để sử dụng chúng nhằm nâng cao chất lượng bài giảng là cần thiết. Song một điều không kém phần quan trọng là sự lựa chọn các phương pháp sao cho phù hợp với đối tượng, với mục đích và nội dung cần truyền tải .

          Đối  tượng của chúng ta trong công tác đào tạo, bồi dưỡng hầu hết là sinh viên chuyên ngành lý luận chính trị, các em sẽ là những người tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy việc  trang bị đầy đủ, toàn diện, sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng và cơ bản. Do đó việc nâng cao chất lượng giảng dậy các môn chủ nghĩa Mác - Lênin trong đó có  bộ môn CNXHKH  luôn là vấn đề cốt lõi vừa có tính cơ bản vừa có tính sống còn đối với giảng viên giảng dạy lý luận Mác – Lênin.

Th.S Nguyễn Thị Thu Châu

Vài nét về cấu trúc lý luận của mô hình “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI”

 

TCCSĐT - Trong hai thập niên gần đây, các đảng cánh tả ở khu vực Mỹ La-tinh bằng con đường bầu cử dân chủ đã giành được chính quyền và thực hiện nhiều cải cách tiến bộ, tích cực hóa đời sống chính trị theo hướng dân chủ, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Vê-nê-xu-ê-la, Bô-li-va, Ê-cu-a-đo, Ni-ca-ra-goa là những quốc gia đã tuyên bố hướng tới chủ nghĩa xã hội với mô hình “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI”. Trong đó, Vê-nê-xu-ê-la là quốc gia khởi xướng và nhiệt thành cổ vũ mô hình này.


Mô hình xã hội mới chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ - trước hết cho một chặng phát triển mới của Mỹ La-tinh và sau đó, ít nhiều có thể xem là một đóng góp cho lý luận chủ nghĩa xã hội hiện đại. Nền tảng lý luận của “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” - triết lý phát triển riêng của khu vực Mỹ La-tinh là khá đặc thù, trước hết bởi sự kết hợp và vị thế của các nhân tố làm nên cơ sở lý luận của mô hình này. Đó là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Bô-li-va và chủ nghĩa nhân đạo Thiên chúa giáo. 

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong mô hình "Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI" 

Không phải ngay từ đầu của quá trình cải cách, các đảng cánh tả đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ nghĩa xã hội khoa học. Trái lại, đã từng có nhiều ý tưởng được đưa ra trong quá trình cải cách ở Vê-nê-xu-ê-la. Từ những năm 1990 thế kỷ XX, người dân Vê-nê-xu-ê-la theo đuổi mục tiêu của cuộc “cách mạng Bô-li-va” là giành chính quyền để tiến tới “xây dựng nền dân chủ toàn diện”, rồi “xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu mới”, “xây dựng chủ nghĩa xã hội Si-môn Bô-li-va (Simon Bolivar)” và gần đây nhất, năm 2005 là “xây dựng Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”… Khi mới lên cầm quyền, cố Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H. Cha-vết (H.Chavez) vẫn tin vào một chủ nghĩa tư bản nhân đạo và đã từng có ý định đưa đất nước mình đi theo con đường thứ ba của trào lưu dân chủ xã hội quốc tế. Song đã có một bước ngoặt trong tư tưởng của cố Tổng thống H. Cha-vết. Đó là vào năm 2002, khi ông suýt bị lật đổ vì một cuộc đảo chính của cánh hữu thân Mỹ. Kể từ đó, ông không còn ảo tưởng về “chủ nghĩa tư bản xã hội” hay “chủ nghĩa tư bản có bộ mặt người” nữa. Ông nói: “Chính cuộc đảo chính tháng 4-2002, những cuộc đình công kéo dài do giới chủ doanh nghiệp tổ chức, những hành động phá hoại ngành dầu khí; những phản ứng và tuyên truyền chống đối đã đưa tôi tới kết luận rằng con đường duy nhất để thoát khỏi đói nghèo là đi lên chủ nghĩa xã hội” (1). Năm 2005, sau 06 năm cầm quyền chống lại cuộc tiến công bằng mọi thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, cố Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H. Cha-vết đã đi tới kết luận: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể đem lại công bằng xã hội và xóa được nghèo đói”. 

Nhận thức của cánh tả Mỹ La-tinh về chủ nghĩa Mác trước tiên là từ “lập trường phê phán”. Tác giả cuốn “Chủ nghĩa xã hội của thế kỷ XXI” xuất bản ở Vê-nê-xu-ê-la, năm 1996, Hai-xơ Đi-ơ-trich Xtê-phan - người sau này được coi là nhà tư tưởng và cố vấn chính trị của cố Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H. Cha-vết đã phê phán tư tưởng của C. Mác là thiên về cải tạo xã hội và đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản. Hai-xơ Đi-ơ-trich Xtê-phan cho rằng, C.Mác chưa đưa ra được mô hình khả thi, bởi đã tuyệt đối hóa vai trò nhà nước và lý tưởng hóa xã hội xã hội chủ nghĩa. Quan niệm của ông là thay vì chuyên chính vô sản, xây dựng một nền dân chủ rộng rãi, mọi người dân được tổ chức trong cộng đồng dân cư đều được tham gia vào cải tạo xã hội như tư tưởng của Si-môn Bô-li-va. 

Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Kinh tế, Tổng thống Cộng hòa Ê-cu-a-đo Ra-pha-en Cô-rê-a (Rafael Correa) cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” dựa trên các nguyên tắc chứ không dựa trên các mô hình. Nó từ bỏ các cách thức xa lạ và giáo điều. Những người ủng hộ và xây dựng “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” cũng tin rằng, ở thời đại ngày nay, không ai có thể khẳng định rằng, nhà nước hóa tư liệu sản xuất là cách thức tốt nhất để đạt được sự phồn thịnh cho xã hội. Và đây chính là sự khác biệt căn bản giữa “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” và chủ nghĩa xã hội truyền thống. Theo chủ nghĩa xã hội truyền thống, để xóa bỏ sự bóc lột lao động, cần phải xóa bỏ sở hữu tư nhân về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Những người xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” không cho rằng cần phải nhà nước hóa hoàn toàn tư liệu sản xuất, tất nhiên là ngoại trừ những ngành chiến lược, nhưng họ ủng hộ việc dân chủ hóa tất cả các tư liệu sản xuất, hay nói cách khác là việc phân bổ chúng một cách công bằng.

“Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” đưa ra quan niệm mới về phát triển: phát triển có nghĩa là đời sống xứng đáng cho tất cả và cho mỗi người, là sự mở rộng tự do và cơ hội cho con người hòa hợp với tự nhiên, là sự giữ gìn muôn đời nền văn hóa nhân loại”. (2).

Mô hình “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” đã kế thừa những gì ở chủ nghĩa Mác? Chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này và bản thân lý luận về “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” vẫn đang còn tiếp tục khai thác thêm nhiều tư tưởng ở chủ nghĩa Mác. Song các nhà nghiên cứu khá nhất trí khi cho rằng, “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” vận dụng lý luận mác-xít ở các luận điểm tư tưởng chống chủ nghĩa tư bản, chống đế quốc; chống áp bức về chính trị và bóc lột về kinh tế của giai cấp tư sản, hướng tới một xã hội công bằng và dần đi tới xóa bỏ giai cấp… Nguyên tắc sở hữu - lấy công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa xã hội đã được ghi nhận và thể hiện trên thực tế. 

Nhìn chung, sự kế thừa các tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin của mô hình này chủ yếu là thông qua việc học tập kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa đang trong thời kỳ cải cách, đổi mới, đặc biệt là về biện pháp. Dường như họ cũng nhận ra rằng, lý luận chủ nghĩa Mác hiện đại đã chuyển hóa và có bước tiến dài thông qua kinh nghiệm của đổi mới. Và việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác của mô hình "Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI" có phần rất quan trọng đi theo hướng này. 

Mô hình "Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI" có một điểm khác so với mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô cũ là không có tình trạng sao chép, giáo điều đối với lý luận chủ nghĩa xã hội giữa các nước Mỹ La-tinh. Chung nhau quan niệm về mô hình xã hội nhưng mỗi nước lại có cách xây dựng khác nhau, có lúc lại khá “phóng khoáng”. Sự “phóng khoáng” đó được thể hiện ở chỗ, có một số nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học chưa thấy xuất hiện trong mô hình. Chính điều này đôi khi cũng làm gợn lên sự lo ngại về tính trung thành với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. Dù sao đây vẫn là những cuộc cải cách trong khuôn khổ dân chủ tư sản, chứ chưa phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ thể đầu tiên của mô hình này là những người theo đường lối dân chủ cánh tả chứ không phải là cộng sản. Sự tiếp thu chủ nghĩa Mác, dù theo cách của họ, vẫn có thể tạo ra được khuynh hướng tích cực cho cải cách. 

Tư tưởng S. Bô-li-va trong mô hình "Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI" 

Si-môn Bô-li-va (1783 - 1830) là nhà cách mạng nổi tiếng người Vê-nê-xu-ê-la, người lãnh đạo các phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ XIX. Ông được mệnh danh là “Người giải phóng” và được coi như “Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn của Nam Mỹ”. Những cuộc đấu tranh do ông lãnh đạo đã lật đổ sự thống trị của Tây Ban Nha, giành độc lập cho 06 quốc gia ngày nay là: Vê-nê-xu-ê-la, Cô-lôm-bi-a, Pa-na-ma, Ê-cu-a-đo, Pê-ru, và Bô-li-vi-a. Tư tưởng Bô-li-va chiếm vị trí quan trọng trong việc phát triển mô hình “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI”, thể hiện ở 07 nội dung chính: 

Độc lập dân tộc. Đấu tranh để Vê-nê-xu-ê-la thoát khỏi sự đô hộ của các thế lực bên ngoài, trở thành một dân tộc tự do. Việc tự quyết định vận mệnh của đất nước mình là một nguyên tắc không thương lượng.

Quyền tự chủ của nhân dân. Nguyên tắc này khẳng định quyền tự do của nhân dân trước các chế độ độc tài trong nước. Quyền tự chủ của nhân dân là quyền hợp pháp lớn nhất của các dân tộc.

Công bằng xã hội. S. Bô-li-va cho rằng, nền cộng hòa và tự do không thể tồn tại nếu không có công bằng xã hội. Nếu tự nhiên làm cho chúng ta khác nhau thì luật pháp có nhiệm vụ phải điều chỉnh những khác biệt này thông qua giáo dục, phát triển công nghiệp, nghệ thuật và các dịch vụ, cho phép mọi người được bình đẳng cả về chính trị và xã hội. Theo S. Bô-li-va, các bất bình đẳng xã hội đe dọa sự tồn vong của nền cộng hòa. Vì vậy, ông tuyên bố sự bình đẳng phải được đặt lên trên cả lợi ích giai cấp. Chính vì vậy, ông đã soạn thảo và công bố các bộ luật trao tự do cho nô lệ và công nhận những quyền rất cơ bản của các dân tộc thổ dân như quyền tự do và quyền có ruộng đất.

Giáo dục toàn dân. Bolivar là người luôn thúc đẩy và bảo vệ quyền được hưởng nền giáo dục của nhân dân. Ông cho rằng, giáo dục toàn dân là trách nhiệm và nghĩa vụ của Nhà nước; chính vì thế, ông đã khẳng định: “Nhiệm vụ đầu tiên của chính phủ là đưa giáo dục đến với nhân dân”. Đối với ông, “một dân tộc dốt nát là công cụ mù quáng hủy diệt chính họ”.

Chống tham nhũng. Đối với S. Bô-li-va, sự hưng thịnh của một quốc gia phụ thuộc vào đạo đức của các công dân thông qua hệ thống giáo dục của quốc gia đó. Đạo đức công dân phải đi cùng các bộ luật nghiêm minh và các tòa án công tâm có khả năng thực hiện công lý. Nếu không làm được điều đó thì nền cộng hòa sẽ chết.

Chống chủ nghĩa quân phiệt. S. Bô-li-va luôn chống lại sự thoái hóa của quân đội; hay nói cách khác là ông phản đối việc các sỹ quan quân đội lạm dụng sức mạnh của vũ khí để mưu cầu lợi ích riêng. Ông luôn chống lại các chế độ độc tài. Đối với ông, một người lính hạnh phúc là người không đòi hỏi quyền lãnh đạo đất nước. Họ không được tự cho mình là trọng tài hay là người phán quyết luật pháp của Chính phủ; họ phải là những người bảo vệ tự do. Ông là người đưa ra sáng kiến xây dựng các đơn vị quân - dân sự; các đơn vị này đã thể hiện tính hiệu quả cao trong cả thời kỳ chiến tranh lẫn hòa bình. Các đơn vị này phải công nhận quyền hợp pháp của nhân dân thông qua luật pháp và thể chế Nhà nước.

Liên kết Mỹ La-tinh. Đây là ý tưởng về sự liên kết Mỹ La-tinh và toàn thế giới trong một chính phủ, được S. Bô-li-va xây dựng từ năm 1826. Hòa bình trên cơ sở một khối liên kết thống nhất các nước Mỹ La-tinh và ông hy vọng một ngày nào đó, nó sẽ là tấm gương để: “Thế giới mới sẽ gồm các quốc gia độc lập gắn chặt với nhau bởi luật pháp chung quy định quan hệ đối ngoại của các nước và tạo cơ hội cho các nước đó, thông qua một cơ quan lập pháp chung, những phương thức để trường tồn... Mọi rào cản về xuất xứ, chủng tộc và màu da sẽ biến mất. Trong các thế kỷ tiếp theo, có thể tiến tới một chính phủ hợp nhất toàn thế giới như một liên bang” (3).

Từ năm 1983, nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của S. Bô-li-va, một tổ chức của các sỹ quan quân đội Vê-nê-xu-ê-la ra đời lấy tên là “Quân đội Bô-li-va 200” (Ejértio Bolivar 200) gọi tắt là EB-200. Tổ chức này có sự tham gia của cố Tổng thống H.Cha-vết và sau này trở thành thủ lĩnh. Lúc đầu, ông xác định hệ tư tưởng này là một cái cây có ba “rễ”: rễ Bô-li-va với tư tưởng đấu tranh chống ách đô hộ của thực dân Tây Ban Nha giành độc lập tự do, quyền bình đẳng và thống nhất các quốc gia Mỹ La-tinh trong một đại liên bang; rễ Xa-mô-ra với tư tưởng bảo vệ chủ quyền dân tộc đoàn kết quân đội với nhân dân; và rễ Rô-bin-sơn - người chủ trương đấu tranh mang lại hạnh phúc, tự do, bình đẳng cho mọi người dân” (4). Cố Tổng thống H.Cha-vết khẳng định: “Chúng tôi gọi đây là cuộc cách mạng Bô-li-va bởi vì mục tiêu mà chúng tôi theo đuổi là tiến hành làm một cuộc cách mạng, thực hiện một cuộc cải cách chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa… dựa trên nền tảng tư tưởng S. Bô-li-va” (5).

Ý tưởng xây dựng “một Tổ quốc châu Mỹ vĩ đại”, “một châu Mỹ không biên giới hiện hữu và mở cửa với thế giới” của Si-môn Bô-li-va được một số nhà lãnh đạo cánh tả ở khu vực Mỹ La-tinh, nhất là cố Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H.Cha-vết quan tâm và tiếp nối để tạo nên “sự cân bằng theo quy luật của vũ trụ” trước các cường quốc. 

Chủ nghĩa nhân đạo Thiên chúa giáo trong mô hình “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” 

Trong lý luận về Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H.Cha-vết đã kế thừa các tư tưởng công bằng, bình đẳng, bác ái, vị tha của đạo Thiên chúa, đặc biệt những tư tưởng về giải phóng tầng lớp dân nghèo. Ngoài ra, ông còn tham khảo thêm trong Kinh thánh và các trước tác nguyên bản của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khi giải thích nội hàm khái niệm “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI”. Tại cuộc gặp gỡ các giáo chủ thiên chúa giáo tại thủ đô Ca-ra-cát (tháng 01-2007) cố Tổng thống H.Cha-vết nói “Tôi khuyên các vị giám mục hãy đọc C. Mác, đọc V.I.Lê-nin và tìm lại trong Kinh thánh để thấy rằng, chủ nghĩa xã hội đã có trong các tác phẩm đó rồi”. Theo cố Tổng thống H.Cha-vết, Chúa Giê-su là “người theo chủ nghĩa xã hội vĩ đại nhất trong lịch sử”. Vì vậy, ông khuyến khích nhân dân Vê-nê-xu-ê-la chủ động quan tâm đến người khác một cách tự do, tự nguyện, xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân

Cố Tổng thống H.Cha-vết cũng không ngần ngại lấy các tác phẩm của chúa Giê-su và Kinh Phúc âm làm ví dụ, nhấn mạnh việc xây dựng thiên đường ở dưới trần gian. Ngày 08-01-2007, tại lễ ra mắt nội các mới của Vê-nê-xu-ê-la, khi giải thích tư tưởng của đạo Cơ đốc, cố Tổng thống H.Cha-vết đã nói rằng: về tài sản công cộng thì tư tưởng Cơ đốc giáo có sự tương đồng với tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản hơn bất kỳ học thuyết xã hội chủ nghĩa nào khác. Chúa Giê-su là người theo chủ nghĩa xã hội đích thực, người chống chủ nghĩa đế quốc. Trong kế hoạch của Chính phủ Vê-nê-xu-ê-la nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhân dân có “Kế hoạch Cơ đốc” với mục tiêu cụ thể xóa bỏ tình trạng nghèo đói trước năm 2011. 

Dưới góc độ tập hợp quần chúng, các tư tưởng nhân đạo, bác ái của Thiên chúa giáo là một góc độ tiếp cận thuận lợi vì Mỹ La-tinh là khu vực có tới 85% số dân theo đạo Cơ đốc. Vì thế, việc quan tâm tới người nghèo cũng mang sắc thái kế thừa tinh thần của “Thần học giải phóng” và là điểm dễ tương dung giữa nguyện vọng của quần chúng và mục tiêu của cải cách. 

Nhìn chung, điểm qua cấu trúc lý luận của mô hình “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” chúng ta nhận thấy tính chất tích hợp của nó là khá rõ nét. Có thể xem “mảnh đất hiện thực” Mỹ La-tinh như là “cái sàng” để lựa chọn các nhân tố hợp lý của các lý thuyết về giải phóng và phát triển. Thực tiễn và lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội đều chấp nhận việc vận dụng sáng tạo lý luận mác-xít.

“Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” do cố Tổng thống H.Cha-vết khởi xướng thực hiện ở Vê-nê-xu-ê-la và sau đó là nhiều nước khác noi theo, tuy đang ở giai đoạn hoàn chỉnh về cơ sở lý luận, nhưng một số đặc trưng của mô hình này và hiện thực của nó đã thể hiện khá rõ nhiều tính chất xã hội chủ nghĩa. Không ai có thể phủ nhận rằng, xu thế này đang mở ra một triển vọng mới cho cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, công bằng và chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay. Việc lựa chọn mô hình "Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI" của các đảng cánh tả và sự hình thành những liên minh khu vực cũng là phản ứng tự nhiên của các nước đang phát triển trước một toàn cầu hóa hiện còn mang đậm tính chất tư bản chủ nghĩa. 

Những gì mà Vê-nê-xu-ê-la và các nước Mỹ La-tinh đang làm, đã thể hiện sức sống mới của phong trào cánh tả ở khu vực và sự bất diệt của mô hình chủ nghĩa xã hội - một mô hình xã hội tươi đẹp mà nhân loại đang hướng tới. Có thể mô hình ấy chưa hoàn toàn tiếp hợp với những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, song những nỗ lực tìm tòi là đáng trân trọng. Điều đáng quý là, thông qua hiện thực ở khu vực Mỹ La-tinh, chúng ta lại thấy sự phát triển mạnh mẽ của xu thế xã hội chủ nghĩa ở Tây bán cầu. 

“Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” và những thành tựu chính trị, xã hội bước đầu đã khẳng định, việc phát huy dân chủ là một trong những động lực quan trọng của cải cách, ngay cả khi nó còn bị giới hạn khuôn khổ dân chủ tư sản. Dân chủ hóa đời sống kinh tế, xã hội đã trở thành những chương trình lớn. Sau khi nắm được quyền điều hành đất nước, các chính phủ cánh tả ở khu vực Mỹ La-tinh đều xúc tiến các chương trình cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội sâu rộng với quyết tâm từng bước xóa bỏ tàn dư của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, khắc phục những hậu quả của quá trình thực hiện mô hình chủ nghĩa tự do mới, đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển lành mạnh. Khát vọng dân chủ và dân sinh của người dân Mỹ La-tinh là tình huống chính trị - xã hội, theo đó, lực lượng chính trị nào nắm bắt và có khả năng giải quyết được những nhu cầu trên thì sẽ được dân chúng ủng hộ và trở thành lực lượng trung tâm, nắm vai trò lãnh đạo đất nước. 

Hiện tượng nhiều nước Mỹ La-tinh cùng xây dựng xã hội theo mô hình “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” có sức động viên, cổ vũ rất lớn với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực trên toàn thế giới. Sự phát triển của phong trào cánh tả Mỹ La-tinh không chỉ có ý nghĩa to lớn và tích cực đối với phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, với khu vực Mỹ La-tinh mà còn có ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam./.

--------------------
Tài liệu tham khảo:

(1). Manuel Cabieses, Chavez sẽ đi đến đâu? Phỏng vấn Tổng thống H. Chavez, đăng trên báo Tiền phong, ngày 27-7-2005

(2). Raphael Correa, Nền kinh tế thế giới và cuộc cách mạng nhân dân ở Ê-cu-a-đo, Tạp chí Mỹ La-tinh, số 12-2009, tr 4-11, tiếng Nga

(3). S.Bolivar, Wikipedia

(4). Bộ Ngoại giao, Vụ châu Mỹ, Tình hình mới ở Mỹ La-tinh và triển vọng quan hệ với Việt Nam trong 5-10 năm tới, Đề tài cấp bộ, Hà Nội, tháng 12-2007, tr 35

(5). Bộ Ngoại giao, Vụ châu Mỹ, Sđd, tr 28-29

Sưu tầm - Th.sĩ : Nguyễn Thùy Linh